Sự kiện Tiên Lãng và “giọt nước tràn ly”

Tác giả: Gs. TsKh. Đặng Hùng Võ
http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/2012-01-13-su-kien-tien-lang-va-giot-nuoc-tran-ly-
Câu chuyện cưỡng chế bằng sức mạnh để thu hồi đất khai hoang ven biển trước thời hạn giao đất vừa qua ở Tiên Lãng, Hải Phòng là một giọt nước làm tràn ly. Giọt nước này đang xẩy ra ở nhiều nơi, nhưng ở đây thể hiện nhiều điều làm mọi người ở các cương vị khác nhau phải suy nghĩ, bắt đầu từ các Đại biểu Quốc hội sẽ xem xét để thông qua Luật Đất đai mới trước năm 2013, tới các quan chức địa phương đang thực thi và kiểm tra việc thực thi pháp luật đất đai, tới người nông dân bình thường đang lo lắng về đời sống chật vật hàng ngày nhờ vào đất đai. Trong sự việc ở Tiên Lãng, một quyết định sai của UBND huyện về thu hồi đất trước thời hạn do pháp luật quy định là điểm bản lề dẫn tới những sai phạm khác. Không có quyết định này thì không có cưỡng chế và không sự phản kháng của dân trong vô vọng…
Người nông dân thường chịu đựng trước những oan trái của mình. Nhưng những con người thuần khiết nhất, sức chịu đựng giỏi nhất cũng có giới hạn. Chỉ cần một giọt nước, giọt nước cuối cùng cũng làm nước tràn khỏi ly nước, đó chính là giới hạn dẫn đến phản kháng. Việc cưỡng chế thu hồi đất luôn đóng vai trò giọt nước tràn ly. Những người chịu đựng cao thì tính tới việc hủy hoại thân mình để biểu lộ sự oan khuất. Những người quyết liệt hơn thì động viên những người cùng cảnh ngộ để cùng nhau khiếu kiện đến cùng cho đỡ đơn độc. Những người vô vọng thì thể hiện bằng những cách tiêu cực nhất trong vô vọng… Cách nhìn nhận vấn đề lúc này phải thật khách quan, công bằng và thẳng thắn, có lý và có tình. Việc xử lý cụ thể là việc nhỏ những giải quyết những vấn đề cốt lõi về đất đai, về chính quyền nhân dân mới là việc lớn.

Cái sai của quá trình giao đất, thu hồi đất và cưỡng chế thu hồi đất so với các quy định của pháp luật

1. Từ đầu tháng 10/1993 cho tới 2005, UBND huyện Tiên Lãng đã ban hành nhiều Quyết định giao đất hoang hóa ven biển tại xã Vinh Quang cho nhiều hộ gia đình thuộc các xã kề cận để cải tạo nuôi trồng thủy sản. Thời hạn sử dụng đất được giao rất khác nhau và diện tích được giao cũng rất khác nhau, vài năm cũng có, tới 14 hay 15 năm cũng có và tới 20 năm cũng có. Diện tích đất được giao cũng rất khác nhau, từ vài ha tới vài chục ha cho mỗi cá nhân.

Theo quy định của pháp luật lúc đó, cơ chế giao đất bãi bồi ven biển căn cứ vào:

(1) Điều 50 của Luật Đất đai 1993 "Việc quản lý, sử dụng đất mới bồi ven biển do Chính phủ quy định";

(2) Quyết định số 773-TTg ngày 21/12/1994 của Thủ tướng Chính phủ về Chương trình khai thác, sử dụng đất hoang hoá, bãi bồi ven sông, ven biển và mặt nước ở các vùng đồng bằng, trong đó Điều 13 quy định hạn mức giao đất là từ 2 đến 10 hécta;

(3) Nghị định số 64-CP ngày 27/9/1993 về việc ban hành Bản quy định về việc giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích sản xuất nông nghiệp, trong đó thời hạn sử dụng đất là 20 năm (nếu đất được giao từ ngày 15/10/1993 trở về trước thì thời hạn được tính thống nhất từ ngày 15/10/1993, nếu đất được giao sau ngày 15/10/1993 thì tính từ ngày giao).

Như vậy các Quy định giao đất của Tiên Lãng có biểu hiện tùy tiện về cả thời hạn lẫn hạn mức diện tích. Theo đúng pháp luật thì thời hạn là 20 năm và hạn mức cho hộ gia đình là từ 2 tới 10 ha. Vậy thì việc thực thi pháp luật căn cứ vào pháp luật của Nhà nước hay căn cứ vào Quyết định của huyện. Ai cũng biết rằng phải căn cứ vào pháp luật của Nhà nước.

2. Hết thời hạn, các hộ gia đình đều nhận được Thông báo của UBND huyện dừng đầu tư sản xuất nuôi trồng thủy sản trên diện tích đất được giao. Sau khi ban hành Thông báo, UBND huyện ban hành Quyết định thu hồi đất căn cứ vào Khoản 10 Điều 38 của Luật Đất đai (Đất được Nhà nước giao, cho thuê có thời hạn mà không được gia hạn khi hết thời hạn).

Vì việc thu hồi đất xẩy ra sau ngày Luật Đất đai 2003 có hiệu lực thi hành (01/07/2004) nên phải căn cứ vào Luật Đất đai 2003 và Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 về thi hành Luật Đất đai. Khoản 1 Điều 34 của Nghị định 181 quy định rằng khi hết thời hạn sử dụng đất, các hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp sử dụng đất nông nghiệp do được Nhà nước giao được tiếp tục sử dụng đất với thời hạn đã quy định (20 năm), trừ các trường hợp: (1) Nhà nước có quyết định thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, phát triển kinh tế; (2) Người sử dụng đất cố ý hủy hoại đất; (3) Cá nhân sử dụng đất chết mà không có người thừa kế; (4) Người sử dụng đất tự nguyện trả lại đất; (5) Đất không được sử dụng liên tục trong thời hạn quy định (12 tháng đối với đất trồng cây hàng năm, 18 tháng đối với đất trồng cây lâu năm, 24 tháng đối với đất trồng rừng). Lưu ý rằng, quy định tại Khoản 1 Điều 34 không trừ trường hợp hết thời hạn quy định tại Khoản 10 Điều 38 của Luật Đất đai mà UBND huyện Tiên Lãng lấy làm căn cứ để ban hành Quyết định thu hồi đất. Như vậy quyết định thu hồi đất căn cứ vào Khoản 10 Điều 38 của Luật Đất đai là hoàn toàn trái pháp luật.

3. Các hộ gia đình bị thu hồi đất bắt đầu thực hiện khiếu nại hành chính và khởi kiện hành chính, Tòa án Huyên Tiên Lãng đã xét xử sơ thẩm và tuyên UBND huyện thắng kiện. Các hộ gia đình lại khởi kiện lên tòa án thành phố Hải Phòng để được xét xử phúc thẩm. Tòa án thành phố yêu cầu UBND huyện Tiên Lãng và các hộ gia đình hòa giải, hai bên đã hòa giải theo Biên bản với nội dung là các hộ gia đình rút đơn kiện và UBND huyện sẽ làm thủ tục theo quy định của pháp luật nếu các hộ có nhu cầu tiếp tục sử dụng đất đai. Trên thực tế, UBND huyện không thực hiện theo Biên bản này mà tiếp tục thực hiện cưỡng chế thu hồi đất. Việc thực hiện cưỡng chế thu hồi đất bằng lực lượng vũ trang đã diễn ra và sự chống đối của người dân cũng đã diễn ra.

Điều quan trọng cần rút ra ở đây là nếu không có các Quyết định sai pháp luật của UBND huyện Tiên Lãng về thu hồi đất và cưỡng chế thu hồi đất thì cuộc sống của người nông dân ở đó vẫn bình lặng, lực lượng vũ trang của huyện cũng đỡ vất vả. Việc thu hồi đất sản xuất giao cho hộ gia đình nông dân trước thời hạn 20 năm là một cái sai "tầy đình".

Vấn đề quyết định thế nào đối với thời hạn sử dụng đất sản xuất nông nghiệp khi hết thời hạn 20 năm đã được xem xét tại Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX (năm 2002), chưa quyết định được và để lại để giải quyết trước thời điểm thời hạn sớm nhất kết thúc là 15/10/2013. Nội dung quan trọng này cũng sẽ được Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa này quyết định vào thời gian tới và cũng là nội dung quan trọng của Luật Đất đai mới sẽ được Quốc hội thông qua trước năm 2013. Vấn đề lớn như vậy mà huyện Tiên Lãng coi như chuyện "vặt", làm sai hết. Tôi có cảm giác như huyện Tiên Lãng không biết địa phận của mình đang nằm trong lãnh thổ Việt Nam.

Nói gì từ những sự việc áp dụng sai pháp luật của UBND huyện Tiên Lãng

1. Việc áp dụng sai pháp luật đất đai không phải chỉ ở UBND huyện mà ở cả Tòa án nhân dân huyện. Hơn nữa, những luận cứ đưa ra trong áp dụng pháp luật theo kiểu "không trung thực", kể cả luận cứ của Tòa án nhân dân huyện trong xét xử sơ thẩm. Ở đây cho thấy, khó có thể đạt được tính độc lập của Tòa án cấp huyện khi xử các vụ kiện hành chính đối với quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính của UBND cấp huyện. Tòa án thành phố cũng giải quyết nửa vời bằng cách cho thương thảo lại. Đáng nhẽ, khi thu lý vụ án thì Tòa án thành phố phải hiểu ngay những sai trái của chính quyền đang diễn ra, sai không chỉ pháp luật mà còn quyết định trước cả những vấn đề mà Trung ương Đảng chưa quyết định.

2. Nhiều cơ quan hành chính ở địa phương có quan niệm rất sai về cơ chế Nhà nước thu hồi đất. Đã có rất nhiều ý kiến phản ảnh rằng các cán bộ thừa hành ở cấp huyện hay nói "Nhà nước có quyền muốn thu hồi đất của ai thì thu". Đây là một cách nói rất sai, làm mất uy tín của Nhà nước ta. Cơ chế Nhà nước thu hồi đất được áp dụng theo quy định của luật pháp, chỉ được thực hiện trong những trường hợp nhất định và khi thực hiện phải tuân thủ trình tự, thủ tục rất rõ ràng. Các cơ quan có thẩm quyền cũng chỉ được áp dụng thẩm quyền theo quy định của luật pháp, không thể "dọa dân" bằng quyền lực thu hồi đất "vô biên" như vậy.

3. Theo những nghiên cứu về các nguy cơ tham nhũng trong quản lý đất đai ở nước ta hiện nay, cơ chế Nhà nước thu hồi đất chứa các nguy cơ tham nhũng cao nhất. Đằng sau quyết định thu hồi đất là quyết định sẽ giao đất đó cho ai? Về bản chất, quyết định thu hồi đất là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định lấy đất của người này giao cho người khác. Đằng sau quyết định hành chính này thường chứa chất những mối quan hệ kinh tế phức tạp, dễ gắn với tư lợi của người có thẩm quyền, của cơ quan có thẩm quyền. Vậy thì ai sẽ là người chờ phía sau của quyết định thu hồi đất của UBND huyện Tiên Lãng để chờ được giao đất đã thu hồi của dân. Theo quy hoạch thì đất nuôi trồng thủy sản ở đó vẫn để nuôi trồng thủy sản. Đáng lẽ thì UBND huyện phải tạo điều kiện hỗ trợ nhiều hơn cho người dân đã có công khai phá để nâng cao năng suất và sản lượng. Không làm được vậy thì thôi, đừng làm đảo lộn người sử dụng đất mà tạo nên sự bất ổn định trong Tam Nông.

4. Việc sử dụng lực lượng vũ trang để cưỡng chế thu hồi đất là một biện pháp không hay, các địa phương không nên áp dụng. Việc áp dụng cơ chế thu hồi đất luôn luôn là mối quan hệ giữa chính quyền của nhân dân và nhân dân. Nguyên tắc thuyết phục và đồng thuận, tận dụng sự tham gia của cộng đồng cần được đặt lên hàng đầu. Lực lượng vũ trang có nhiều việc hệ trọng phải tập trung vào làm.

5. Hệ thống kiểm tra của cơ quan hành chính đối với các cơ quan trực thuộc ở ta còn rất kém. Hệ thống giám sát của Hội đồng nhân dân đối với Ủy ban nhân dân ở ta cũng rất yếu. Mọi việc diễn ra ở Tiên Lãng cho thấy rõ điều này. Một việc sai phạm pháp luật về đất đai đến như vậy, ý kiến oan trái của cả một tập thể nông dân nhiều đến như vậy mà không thấy xuất một hình bóng nào của công tác kiểm tra và giám sát.

6. Chính quyền phải giữ chữ "tín" với dân, không thể thỏa thuận với dân một đằng rồi lại làm một nẻo. Vật chất có thể mua được nhưng lòng dân không bao giờ mua được. Dân tin khi những người thay mặt cho chính quyền giữ đúng chữ "tín" trước với dân. Hãy cho dân trước rồi mới lấy đi của dân.

7. Vấn đề đất đai cho nông dân không hề đơn giản. Trong chế độ thực dân, phong kiến, người nông dân trực tiếp sản xuất không có ruộng, phải làm thuê, cuốc mướn, cấy rẽ. Người nông dân đã bị phong kiến, đế quốc bần cùng hóa để phải rời bỏ ruộng vườn. Hầu hết nông dân đã lên đường làm cách mạng vì một mục tiêu rất giản dị: có ruộng để cầy. Người nông dân Việt Nam ít được học nhưng sống luôn có đạo lý, biết hy sinh và cũng biết phẫn nộ.

8. Động viên tốt, người nông dân đã từng nhịn ăn để nuôi các chiến sỹ cách mạng, đã từng đem giường ngủ ra lát đường cho xe ra tiền tuyến, đã từng hiến đất để làm trường học, mở bệnh viện, v.v. Họ hy sinh cả vật chất và tinh thần rất vui vẻ. Những người nông dân đa số là chịu đựng mặc dù biết rằng oan trái. Việc người nông dân oan trái trong mất ruộng đất đang xẩy ra ở nhiều nơi. Đừng coi câu chuyện này đơn giản, xem xét một chiều, vô cảm.

9. Việc động viên các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân tham gia khai hoang, phục hóa, lấn biển là một chính sách lớn của Nhà nước. Cần có nhiều ưu đãi đối với những ai làm tốt việc này. Cái ưu đãi lớn nhất đối với người nông dân là hãy để cho họ ổn định làm ăn khi họ đang sử dụng đất có hiệu quả. Nếu Nhà nước cần đất hãy tính đến chuyện lấy đất ở những nơi đang sử dụng không hiệu quả. Khai khẩn, thuần dưỡng đất hoang hóa là công việc rất nặng nhọc. Trên từng thước đất có mồ hôi, nước mắt và có cả máu của người nông dân nữa. Chúng ta đừng dửng dưng với việc này mà phải hiểu hơn nữa người nông dân mới hy vọng làm cho tam nông tốt lên được.

Vài lời kết

Có thể coi sự việc vừa qua ở Tiên Lãng là đỉnh điểm của những bất cập về cả pháp luật đất đai và việc thực thi pháp luật ở các cấp địa phương. Một người nông dân tốt, thuần chất, ham lao động mà phải bảo vệ quyền lợi đất đai của mình bằng vũ khí tự tạo thì quả là cùng cực. Con người ai cũng tin vào công lý và tin vào công lý đó được pháp luật bảo vệ. Những người nông dân khai phá đất nuôi trồng thủy sản ở Tiên Lãng chắc chắn cũng tin như vậy. Rồi tới tòa án, nơi rất công bằng, mà những chân lý giản dị như họ tự hiểu cũng vẫn không nhìn thấy. Họ phải tự quyết liệt một mình trong vô vọng…

Vụ cưỡng chế Tiên Lãng – đỉnh điểm xung đột về đất đai

http://sgtt.vn/Thoi-su/158057/Vu-cuong-che-Tien-Lang-%E2%80%93-dinh-diem-xung-dot-ve-dat-dai.html

Xung đột đã lên tới đỉnh điểm khi mà bạo lực đã đối chọi cuồng nộ vào công lực. Đây cũng là một hồi chuông để cho chúng ta thấy một thực tế đầy gai góc trong việc xây dựng và thực thi pháp luật đất đai. Gần 20 năm qua, kể từ luật Đất đai 1993, người nông dân vẫn tin rằng sau khi hết thời hạn giao đất, họ sẽ tiếp tục được quyền sử dụng đất đó và tài sản trên đất là tài sản thuộc quyền sở hữu của riêng mình được pháp luật bảo vệ… Sài Gòn Tiếp Thị giới thiệu những phân tích và nhận định về vụ việc từ khía cạnh chính sách đất đai và thực thi pháp luật.
Trong khoảnh khắc tiếng súng hoa cải loạn xạ ở vùng đầm hồ Vinh Quang huyện Tiên Lãng, Hải Phòng, những người nông dân nhất quyết bảo vệ tài sản của mình đã trở thành tội phạm. Trước đó những người này đã cho nổ cả mìn tự tạo để ngăn cản lực lượng cưỡng chế đến thu hồi đất đầm nhà họ.
Sáu nhân viên công lực bị trọng thương.
Vì thế, sáu người thân của gia đình họ Đoàn đã sa vào lao lý.
Luật pháp, trong trường hợp này quá rõ ràng, phải đặt dấu chấm nghiêm minh cho những hành động bạo lực nguy hiểm như vậy trong xã hội.
Nhưng tiếng súng ấy có thể đã không phải vang lên.
Ít nhất là trong hình dung của đại tá Đỗ Hữu Ca, giám đốc Công an thành phố Hải Phòng, “lẽ ra trong vụ cưỡng chế ngày 5.1 ở Tiên Lãng, khi mìn phát nổ, tổ công tác của huyện phải cho rút quân ngay để xin ý kiến chỉ đạo”. Vị đại tá này cho rằng, “trong các vụ giải toả đất đai, lấy lại mặt bằng phải xác định chủ đất hoặc đang thuê đất họ không phải là tội phạm”.
Cái “ý kiến chỉ đạo” sáng suốt đó đã không được huyện “xin”. Có thể vì như ông giám đốc Công an TP Hải Phòng lý giải: “Từ sau hoà bình đến nay, người dân Tiên Lãng khá thuần nên huyện nghĩ rằng không có việc chống đối như thế”.
Cái tập tính thuần lương ấy được ghi nhận có cả ở những anh em họ Đoàn trước khi vụ việc xảy ra. Bao nhiêu năm trời, họ chỉ biết rửa mồ hôi khó nhọc thành gia sản. Họ đinh ninh luật pháp sẽ bảo vệ sự thuần lương của họ. Nên khi ao đầm mà họ khai phá bị chính quyền địa phương thu hồi, họ đã phải cậy đến toà án. Khi bản án sơ thẩm tuyên bất lợi cho họ, họ vẫn kiên trì các biện pháp hợp pháp, kháng cáo lên toà cấp trên, để bảo vệ quyền lợi của mình.
Rời chốn công đường ấy, họ tin vào biên bản hoà giải có dấu đỏ của TAND thành phố Hải Phòng với tiêu đề “Biên bản tạo điều kiện để các đương sự thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ án”. Theo đó, đại diện UBND huyện đã thoả thuận: nếu nguyên đơn rút kháng cáo, UBND huyện sẽ tạo điều kiện cho người dân được tiếp tục thuê đất để nuôi trồng thuỷ sản.
Ngay sau khi họ rút đơn kháng cáo, thẩm phán ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án. Nhờ vậy, UBND huyện liên tục hối thúc chấp hành việc thu hồi đất với lý do bản án sơ thẩm của TAND huyện Tiên Lãng vẫn có hiệu lực. Rồi huyện quyết định cưỡng chế. Đạn hoa cải lên nòng.
Vụ việc lên đến đỉnh điểm của xung đột, một phần, ở trong quá trình chấp pháp ấy. Điều băn khoăn của ông giám đốc Công an Hải Phòng: “Trong các vụ cưỡng chế, việc chuẩn bị lực lượng cũng như máy móc khá cần thiết. Tuy nhiên từ xưa đến nay các vụ cưỡng chế phải xác định quan điểm giáo dục là chính…” đã không xuất hiện bằng thực tế hiện trường. Cái cơ hội “trước khi cưỡng chế cần giải thích cụ thể để họ tự nguyện bàn giao” thật đáng tiếc chỉ là giả định.
Thực ra thì với những người nông dân bình thường, những ao đầm nuôi trồng thuỷ sản ấy là sinh mệnh của họ. Ở đó, ý chí, mồ hôi và cả nợ nần đã kết tinh vào đất đai thành ý niệm về quyền sở hữu tài sản của họ. Với họ, một nền tảng luật pháp tiến bộ, một đường lối chính trị đúng đắn là phải thừa nhận và bảo hộ cho cái quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm ấy.
Gần 20 năm qua, kể từ luật Đất đai 1993, người nông dân tin tưởng vào công cuộc đổi mới bởi họ nhất quyết rằng, sau khi hết thời hạn giao đất, họ sẽ tiếp tục được quyền sử dụng đất đó làm tư liệu sản xuất nông nghiệp nếu có nhu cầu, tài sản trên đất là tài sản thuộc quyền sở hữu của riêng họ được pháp luật bảo vệ. Đó là cơ sở chính trị để người dân tiếp tục tin Đảng, theo Đảng.

Vùng bãi bồi xã Vinh Quang ở huyện Tiên Lãng đã được những người nông dân biến thành vùng ao đầm nuôi trồng thuỷ sản cũng trong niềm tin như vậy.
Nhưng vẫn có một quan niệm khác mà người nông dân tại đây không cho rằng đó là đường lối của Đảng.
Đó là khi chính quyền địa phương hiểu luật Đất đai 1993 rằng, đất đai vốn là tài sản thuộc sở hữu toàn dân giao cho Nhà nước quản lý, Nhà nước có quyền thu hồi khi hết thời hiệu giao đất. Và vì là luật chỉ cho anh canh tác trong thời hạn giao đất, nên khi “lấy lại” đất, chính quyền không cần phải đền bù. Nôm na là, đất đai của nhà nước giao cho anh sử dụng trong 20 năm, tài sản trên đất ấy tính toán thế nào là chuyện của anh, hết hạn thì nhà nước lấy lại đất không cần quan tâm gì đến tài sản hình thành trên ấy. Thậm chí có trường hợp còn rục rịch, nhân dịp hết thời hạn giao đất, đòi chia lại đất đai.
Cách hiểu ấy không phải là không phổ biến, nhất là khi cả các cơ quan hướng dẫn thi hành luật cũng chưa có một tín hiệu xác quyết sẽ xử lý thời hạn giao đất 20 năm (hết hạn vào 2013) như thế nào. Ở diễn đàn Quốc hội, và tại nhiều địa phương, không ít lần mối lo này đã được trình bày gay gắt.
Thêm vào đó, trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế sang cơ chế thị trường, cùng với tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, tốc độ đô thị hoá nhanh chóng, đất đai trở thành thị trường có mức chênh lệch giá cả khủng khiếp. Người dân có đất, găm đất để chờ được đền bù theo giá thị trường. Chính quyền địa phương nhắm tới chênh lệch giá đất như một cứu cánh của ngân sách để thực thi ý chí phát triển bằng mọi giá. Nhiều đại gia giàu lên từ đất. Nhiều cán bộ mập lên trên đất. Cái vòng xoáy ấy, nhiều nơi, nhiều lúc đã bứt hệ thống chính trị ở cơ sở chệch khỏi đường lối cơ bản của Đảng là giao cho người nông dân quyền sử dụng đất ổn định lâu dài, tạo nền tảng căn bản cho mục tiêu ổn định chính trị xã hội.
Có thể ở vùng bãi bồi xã Vinh Quang này, thông tin quy hoạch sân bay Hải Phòng được phê duyệt đã tạo cơ sở cho chính quyền địa phương quan niệm cần sớm thu hồi lại đất nông nghiệp đã giao: đó là cách chuẩn bị tích cực cho quá trình thực hiện quy hoạch giúp cho địa phương đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Có thể, có những vị quan tư lợi, muốn lợi dụng việc thu hồi đất để “chia” lại cho người thân, cánh hẩu của mình, trong khi chờ quy hoạch.
Cũng có thể, những người nông dân cũng chờ đợi một cuộc lên giá chóng mặt sau cái quyết định quy hoạch ấy.
Tất cả những điều có thể ấy phải được tìm hiểu thận trọng, chính xác để xem nó đã tạo ra bao nhiêu phần trăm bạo lực trên những phát đạn nã vào những người thực thi công vụ.
Nhưng những viên đạn hoa cải đã nổ ra sớm hơn năm 2013, thời điểm hết hạn giao đất nuôi trồng thuỷ sản theo luật Đất đai 1993 là một báo động không chỉ dừng lại ở những vướng mắc về pháp lý. Xung đột đã lên tới đỉnh điểm khi mà bạo lực đã đối chọi cuồng nộ vào công lực. Xung đột ấy đưa những khác biệt về quan niệm trong quá trình đổi mới chính sách đất đai lên tới nút thắt không thể thoái thác, rằng phải có định nghĩa rõ ràng về quyền sở hữu với đất đai để tránh sự lạm dụng, tuỳ tiện, bất nhất trong thực tiễn đời sống.
Ở đó, quyền của người dân trên mảnh đất của mình phải được minh định và phải được bảo vệ chặt chẽ.
Ở đó, nguyên tắc nhà nước pháp quyền phải là khung thước cho công vụ, chính quyền trước hết phải bảo đảm các quyền lợi hợp pháp của công dân chứ không chỉ bảo vệ lợi ích của nhà nước.
Tân Dân

BAO GIỜ CHO HẾT DỐI GIAN?…

Sáng nay, tranh thủ leo lên mạng tìm kiếm tin tức như một món ăn quen thuộc không thể thiếu. Bắt gặp mấy bài viết, càng đọc càng buồn. Theo Bộ Tài chính, tất cả các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu đều có lãi, nhưng lại la làng là “lỗ” để được Nhà nước cho giảm thuế và tăng giá, móc túi người tiêu dùng. Để tranh giành thị phần, họ chi hoa hồng vô tội vạ cho các đại lý, bất chấp định mức cho phép của Bộ Tài chính và chất thêm gánh nặng đè lên đầu người tiêu dùng và nền kinh tế đang trong cơn khốn khó. Thế là đã rõ: lợi ích cục bộ, lợi ích nhóm đã khiến họ dối gian.
Chưa hết hoang mang, lại bắt gặp cái tin “bắt đầu từ 20/12/2011, giá điện bình quân sẽ được Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) điều chỉnh tăng 5% so với giá bán hiện hành”. Một cú sốc kinh tế, tinh thần giáng xuống nền kinh tế giữa lúc lạm phát ở mức khủng 18%, cao nhất khu vực Đông Nam Á. Nhiều doanh nghiệp lao đao, đứng bên bờ vực phá sản. Người dân khốn khó bởi việc làm khan hiếm, tết nhất cận kề, vật giá tăng cao, phải thắt lưng buộc bụng. Chua chát thay, trong lúc kinh doanh thua lỗ nặng (hàng chục ngàn tỷ đồng) thì lương bổng của cán bộ EVN lại cao ngất ngưỡng (13,7 triệu đồng/người/tháng)! Phải chăng họ đã lấy “thóc giống” chi lương? Để rồi, tăng giá điện, bắt dân đỏ dân đen è cổ dốc túi vốn đã eo hẹp chi trả cho sự quản lý yếu kém “dở ẹc” cùng sự thụ hưởng trên mức khá giả của dân lành.
Câu chuyện lỗ lã và tái cơ cấu các doanh nghiệp Nhà nước nghe hoài đến nhàm tai và người dân còn dài dài thống khổ. Than ôi:

Bao giờ cho hết dối gian
Bao giờ cho hết tham quan dân nhờ?

Quốc hội thông qua Nghị quyết phát triển KTXH 5 năm

Theo Đài THVN (VTV), sáng nay (8/11), tại kỳ họp thứ 2 Quốc hội khoá XIII, các đại biểu quốc hội đã biểu quyết thông qua Nghị quyết về Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm (2011 – 2015) với đa số phiếu tán thành.

91,60% đại biểu tán thành các mục tiêu tổng quát của Nghị quyết đó là: Phát triển kinh tế nhanh, bền vững, gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả sức cạnh tranh; bảo đảm phúc lợi xã hội và an sinh xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; tăng cường hoạt động đối ngoại và nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội, tạo nền tảng đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

89,20% đại biểu biểu quyết tán thành thông qua toàn bộ Nghị quyết bao gồm các nội dung cụ thể như sau:

– Về tốc độ tăng trưởng kinh tế: Quốc hội quyết định chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng (GDP) tăng khoảng 6,5-7%, phấn đấu đạt cận dưới (7%) của chỉ tiêu kế hoạch 5 năm 2011-2015 theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI.

– Về chỉ số giá tiêu dùng: Với yêu cầu kiểm soát chỉ số giá tiêu dùng gắn với điều chỉnh giá điện, than, xăng, dầu và giá một số dịch vụ công theo cơ chế thị trường, đến năm 2015 tăng 5-7% là phù hợp và là cơ sở để kiểm soát chỉ số giá tiêu dùng bình quân trong kế hoạch 5 năm tiếp theo dưới 5%/năm. Quốc hội đã quyết định chỉ tiêu chỉ số giá tiêu dùng tăng 5-7%, đồng thời đề nghị Chính phủ tập trung triển khai đồng bộ, chỉ đạo kiên quyết hơn các giải pháp để kiềm chế và giảm chỉ số giá tiêu dùng.

– Bội chi ngân sách nhà nước đạt dưới 4,5% vào năm 2015 (mức bội chi có cộng thêm trái phiếu Chính phủ).

Bên cạnh đó, các chỉ tiêu khác cũng được thông qua giữ nguyên như trong dự thảo nghị quyết như:

– Nợ công đến năm 2015 không quá 65% GDP, dư nợ của chính phủ không quá 50% GDP, dư nợ quốc gia không quá 50% GDP.

– Tỉ lệ huy động thuế và phí vào ngân sách không quá 22-23% GDP/năm.

Về các chỉ tiêu xã hội, môi trường và định hướng nhiệm vụ và giải pháp của Nghị quyết cũng đã được Quốc hội thông qua cơ bản như trong dự thảo như:

– Giảm hộ nghèo nhanh và bền vững, tỉ lệ giảm bình quân 2%/năm và giảm bình quân 4%/năm đối với các huyện nghèo, các xã đặc biệt khó khăn.

– Tỉ lệ lao động qua đào tạo trong tổng số lao động đang làm việc trong nền kinh tế đạt 55% vào năm 2015.

– Thu nhập thực tế của dân cư đến năm 2015 gấp 2-2,5 lần so với năm 2010.

– Đến năm 2015 đạt 8 bác sỹ và 23 giường bệnh (không tính giường trạm y tế xã) trên 1 vạn dân. Đến năm 2015 đạt 8 bác sỹ và 23 giường bệnh (không tính giường trạm y tế xã) trên 1 vạn dân.

Cũng trong sáng nay, các đại biểu Quốc hội đã thảo luận cho ý kiến về chương trình mục tiêu quốc gia 5 năm (2011-2015) và chương trình sử dụng trái phiếu chính phủ 5 năm (2011-2015).
Hy vọng với sự dốc sức đồng lòng của toàn Đảng, toàn dân, sự toàn tâm toàn ý của các lãnh đạo Đảng, Nhà nước, với nhiều hiện tượng Đinh La Thăng, những con số ấn tượng sẽ trở thành hiện thực trong vòng 5 năm tới đây

.

Cù Huy Hà Vũ: Từ góc nhìn của một người Việt hải ngoại

Chiều ngày 2/8/2011, TAND Tối cao đã bác toàn bộ đơn kháng án của ông Cù Huy Hà Vũ và nhận định: bị cáo Cù Huy Hà Vũ đã “phạm tội tuyên truyền chống nhà nước”, giữ nguyên mức án sơ thẩm 7 năm tù giam, ông Vũ sẽ bị quản chế tại địa phương trong 3 năm tiếp theo. Trong thời gian này, một số báo chí phương Tây đã đăng những thông tin ủng hộ “sự dũng cảm”, “gạt lợi ích cá nhân” lo việc lớn… của ông Vũ.

Để độc giả hiểu thêm về Cù Huy Hà Vũ, Petrotimes xin trân trọng giới thiệu bài viết của Giáo sư Trần Chung Ngọc, đã đăng trên Tạp chí Nhân quyền Việt Nam.

Giáo sư Trần Chung Ngọc sinh năm 1931 tại Hà Nội, từng phục vụ trong quân đội Sài Gòn 8 năm. Ông nhận học bổng du học tại Mỹ vào năm 1967. Năm 1972 ông trở về giảng dạy tại một số trường đại học ở Sài Gòn. Đến năm 1975 ông sang Mỹ làm nghiên cứu sinh rồi định cư tại Mỹ cho đến nay. Thời gian qua, GS Ngọc đã có nhiều bài viết phân tích một cách sâu sắc, khách quan, phê phán Mỹ, phương Tây và một số tác giả hải ngoại lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền để chống phá Việt Nam, trong đó có bài viết dưới đây.

Giáo sư Trần Chung Ngọc:
Về mấy nhận định của Cù Huy Hà Vũ

Tôi đã đọc khá nhiều về Cù Huy Hà Vũ trên những diễn đàn thông tin ở trong nước cũng như ở hải ngoại. Lẽ dĩ nhiên những người hành nghề chống Cộng ở hải ngoại lại có dịp hoan hô, ủng hộ những lời tuyên bố của Mark Toner, HRW, RFA, RFI, Liên hiệp châu Âu… để lên án Nhà nước về vụ xử “Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ”. Sau đây tôi muốn nói về vài nhận định của ông Cù Huy Hà Vũ:

Ông Vũ phát ngôn: “Không có Đảng Cộng sản Việt Nam thì độc lập dân tộc và thống nhất đất nước vẫn cứ đến với người Việt Nam như lịch sử đã minh chứng trong suốt 2.000 năm qua… Chắc chắn Hai Bà Trưng, Lý Bí, Triệu Quang Phục, Ngô Quyền, Đinh Bộ Lĩnh, Lê Hoàn, Lý Công Uẩn, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Nguyễn Huệ không phải là Đảng Cộng sản Việt Nam hay Ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khi tiến hành thành công các cuộc chiến tranh đánh đuổi quân xâm lược phong kiến Trung Hoa để giành độc lập dân tộc hay để thống nhất đất nước”.

Tôi nghĩ rằng, đầu óc của Cù Huy Hà Vũ quả thật thuộc loại bất bình thường. Tất cả những nhân vật lịch sử của Việt Nam ông Vũ nêu trên đều thuộc những thời đại Đảng Cộng sản chưa ra đời, vậy tất nhiên họ “không phải là Đảng Cộng sản”. Nhưng thử hỏi, không có Đảng Cộng sản Việt Nam thì chế độ nô lệ thực dân Pháp có cáo chung không?

Trong hơn 80 năm dưới sự đô hộ của Pháp, đã có biết bao cuộc nổi dậy của những người Việt Nam yêu nước chống Pháp, nhưng có ai thành công không? Từ phong trào Cần Vương, Hoàng Hoa Thám… cho đến Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thái Học, những người yêu nước trên đã đạt được những kết quả gì trong công cuộc đánh đuổi thực dân Pháp? Lê Lợi, Nguyễn Huệ… đâu, sao không thấy, mà chỉ thấy có Hồ Chí Minh, theo gương các tiền nhân anh hùng của Việt Nam là thành công đánh đuổi được thực dân Pháp. Độc lập dân tộc và thống nhất đất nước vẫn cứ đến với người Việt Nam bằng cách nào, phải chờ bao nhiêu lâu nữa, hay nằm hút thuốc phiện, há miệng chờ sung, hay chờ cho một Lê Lợi, Nguyễn Huệ khác, không phải là Cộng sản xuất hiện? Đừng có quên là Pháp trở lại với mục đích tái lập nền đô hộ ở Việt Nam với 80% quân phí do Mỹ yểm trợ. Và cũng đừng quên là Mỹ đã đơn phương dựng lên một chế độ bù nhìn Công giáo Ngô Đình Diệm ở Việt Nam, không chịu thi hành điều khoản Tổng tuyển cử vào năm 1956 trong Hiệp định Geneva.

Ông Cù Huy Hà Vũ có vẻ như không hiểu mấy về lịch sử cận đại Việt Nam. Ông không biết rằng, cuộc chiến thắng chống ngoại xâm của Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đã gây nên tiếng vang trên thế giới như thế nào. Ông công nhận những cuộc chiến thắng quân Tàu ngoại xâm của Việt Nam trong những thời trước nhưng lại muốn phủ nhận công chiến thắng quân ngoại xâm Pháp rồi Mỹ của Đảng Cộng sản Việt Nam… Không thể dựa vào những chuyện của chính quyền ngày nay mà ông không đồng ý để phủ nhận những công trên của Đảng Cộng sản…

Ông Vũ còn nói: “Khi nói “giải phóng miền Nam” thì không thể không xác định giải phóng miền Nam khỏi ai, khỏi cái gì. Chắc chắn không phải “giải phóng miền Nam” khỏi sự chiếm đóng của Hoa Kỳ vì ngày 30-4-1975, quân đội Cộng sản nhận sự đầu hàng của Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Dương Văn Minh, đó là chưa kể Hoa Kỳ đã rút hết quân khỏi miền Nam từ năm 1973 theo Hiệp định Paris”.

Nếu ông Cù Huy Hà Vũ không hiểu “giải phóng miền Nam” là giải phóng khỏi ai và giải phóng khỏi cái gì thì không nên đặt thành vấn đề xác định, vì ông còn thiếu một thắc mắc là “giải phóng miền Nam” để làm gì? Hoa Kỳ chưa bao giờ chiếm đóng miền Nam, chỉ dựng lên miền Nam rồi khi tình hình nguy ngập, đổ nửa triệu quân vào đánh giúp miền Nam để miền Nam khỏi rơi vào tay Cộng sản và khi thấy không thể thắng được và không còn muốn giúp nữa thì Hoa Kỳ tháo chạy (từ của Nguyễn Tiến Hưng) hay văn vẻ lịch sự hơn là “rút lui trong danh dự”. Thực tế là trong miền Nam còn có Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam và đa số người dân miền Nam ủng hộ mặt trận này, nếu không, chẳng bao giờ Cộng sản có thể thành công “giải phóng miền Nam” được.

Lẽ dĩ nhiên một số người ở miền Nam, vì hoàn cảnh đất nước nên dù muốn dù không cũng thuộc miền Nam, trong đó có tôi, chẳng muốn mình được giải phóng. Nhưng không muốn là một chuyện mà chuyện thống nhất quốc gia để hợp với lòng dân, ít ra là đa số người dân, lại là một chuyện khó tránh, vì người dân không muốn cảnh Trịnh – Nguyễn phân tranh trong lịch sử tái diễn. Hơn nữa, Cộng sản đã lãnh đạo người dân kháng chiến chống Pháp, tốn bao xương máu, đi đến chiến thắng Điện Biên Phủ, ký Hiệp định Geneva với hy vọng thống nhất đất nước qua giải pháp chính trị Tổng tuyển cử năm 1956, nhưng bị Mỹ dựng lên miền Nam, cường quyền thắng công lý, không thi hành điều khoản Tổng tuyển cử vào năm 1956 quy định trong Hiệp định Geneva.

Cộng sản có cách nào hơn để đi đến thống nhất đất nước, chẳng lẽ tốn bao xương máu để cho miền Nam trù phú ở trong tay một “chí sĩ” Công giáo nằm trong các tu viện Công giáo suốt trong thời gian toàn dân kháng chiến chống Pháp hay sao? “Giải phóng miền Nam” là câu tuyên truyền của Cộng sản để thực hiện thống nhất đất nước. Cho nên câu hỏi của ông Vũ chứng tỏ là ông không biết mấy về cuộc chiến ở Việt Nam. Tôi cũng là người đã tháo chạy trước ngày 30/4/1975 vài ngày, nhưng với lương tâm trí thức, chẳng thể nào phủ nhận diễn biến lịch sử nó là như vậy.

Vài lời kết luận

Tôi biết rằng, viết ra những ý kiến cá nhân ngược dòng dư luận hải ngoại thể nào cũng lại bị chụp vài cái mũ trên đầu. Nhưng chẳng sao, vì những kẻ buôn nón cối thường không đủ khả năng để thảo luận những vấn đề tôi viết trong bài. Nếu người nào đọc bài này mà cho rằng tôi bênh vực chính quyền Việt Nam hoặc lên án Cù Huy Hà Vũ thì người đó chưa bao giờ hoạt động trong lĩnh vực học thuật.

Tôi ở trong quân đội quốc gia cho nên năm 1954 đã di cư vào Nam. Tôi đã phục vụ trong quân lực của miền Nam tổng cộng là 8 năm rưỡi và đã phục vụ trong ngành Giáo dục Việt Nam cho đến ngày cuối. Tôi nghĩ mình ở đâu, làm đầy đủ bổn phận công dân ở đấy là đủ, không có gì phải hổ thẹn với lương tâm. Nhưng cuộc chiến Quốc – Cộng đã ngưng 36 năm trước đây rồi, cho nên trong đầu óc tôi không còn Quốc – Cộng mà chỉ còn người Việt Nam. Khi nghiên cứu về lịch sử thì chúng ta phải hiểu rõ là những sự thật lịch sử thì không có tính cách bè phái hay Quốc – Cộng. Và dù những sự thật đó có làm chúng ta đau lòng cách mấy chúng ta cũng phải chấp nhận. Đó là sự lương thiện trí thức của con người.

Viết bài này, tôi chẳng bênh vực chính quyền mà cũng chẳng lên án Cù Huy Hà Vũ mà tôi chỉ nghiên cứu sự việc qua những thông tin trên Internet, tổng hợp, phân tích và đưa ra những ý kiến dựa trên những thông tin và những sự kiện chứ không dựa trên cảm tính cá nhân. Nhưng tôi cần phải nói là tôi chống những sự can thiệp của bên ngoài, bất cứ từ đâu, vào nội bộ Việt Nam. Không phải chỉ vì tôi đã thấy rõ bản chất của chính sách đối ngoại của Mỹ, thực chất của những tổ chức như RFA, HRW, RFI… mà lý do chính là vì, như trên tôi đã nói, tôi là một công dân Mỹ gốc Việt Nam, mà đã là gốc Việt Nam thì tôi nghĩ, những vấn nạn của Việt Nam hãy để cho người Việt Nam tự giải quyết, không cần đến những sự can thiệp trịch thượng và đạo đức giả vào nội bộ Việt Nam của bất cứ ai hay thế lực nào khác.

Tôi chẳng có ác cảm gì với những cá nhân hay tổ chức chuyên can thiệp vào những chuyện nội bộ Việt Nam, vì đó là mục đích chính trị của họ. Tôi cũng chẳng có ác cảm gì với Cù Huy Hà Vũ và những người ở trong nước tranh đấu cho dân chủ và nhân quyền, vì đó là quyền tự do của họ. Vấn đề là ở chỗ thẩm quyền của những tổ chức bên ngoài để can thiệp vào chuyện nội bộ Việt Nam và hình thức tranh đấu cho dân chủ và nhân quyền của những người trong nước. Hung hăng chửi bậy trong Tòa như Nguyễn Văn Lý thì không phải là tranh đấu cho dân chủ và nhân quyền. Thắp nến cầu nguyện với búa, kìm và xà beng ở Tòa Khâm Sứ thì không phải là hình thức tranh đấu hợp pháp. Tuyên ngôn Phục Linh không phải là quyền tự do ngôn luận. Những người tranh đấu cho dân chủ và nhân quyền ở trong nước mà dựa thế nước ngoài là tranh đấu một cách rất vụng về. Mục đích tranh đấu là đúng, nhưng không thể tự lực mà phải nhờ đến người ngoài là phương thức tranh đấu không có hiệu quả, vì chính quyền Việt Nam và đa số người dân Việt Nam, theo truyền thống lịch sử, rất nhạy cảm đối với sự can thiệp của nước ngoài.

Nhìn lại lịch sử, chúng ta có bao giờ nghĩ rằng các cường quốc Tây phương thực tâm vì nhân quyền mà ủng hộ sự tranh đấu cho nhân quyền của chúng ta hay không? Nói như vậy không có nghĩa là chúng ta thôi không tranh đấu cho nhân quyền nữa. Nhưng vấn đề là làm sao tạo được uy tín, được sự ủng hộ của người dân mà không có bóng dáng của bất cứ một cá nhân hay tổ chức nào ở ngoài, chỉ như vậy mới có thể đi đến thành công.

Dựa vào thế lực ngoại quốc để tranh đấu cho nhân quyền ở Việt Nam, hoặc liên hệ truyền thông với những tổ chức ở nước ngoài mà mọi người đều biết là không có thiện cảm với chính quyền Việt Nam, tôi cho là những hình thức tranh đấu không có mấy hiệu quả, hơn nữa có thể gây nên những phản tác dụng đối với chính quyền Việt Nam hiện thời, một chính quyền rất nhạy cảm trước mọi hành động có tính cách xen vào nội bộ Việt Nam. Kết quả những công cuộc vận động ngoại quốc để làm áp lực đối với chính quyền Việt Nam sẽ không mang lại kết quả khả quan nào, vì những người Việt yêu nước, bất kể là chính kiến khác nhau như thế nào, đều không thể ủng hộ đường lối nhờ sự can thiệp của người ngoại quốc vào những chuyện bất đồng ý kiến giữa người Việt với nhau.

Nhìn vào quá khứ, chúng ta thấy đã có biết bao nghị quyết nọ kia, kể cả nghị quyết của Liên hiệp Âu châu và cả danh sách CPC, dự luật về nhân quyền cho Việt Nam của Hạ viện Mỹ, nhưng kết quả là bao nhiêu, chính quyền Việt Nam lùi một bước tiến hai bước và cứ làm theo ý. Tại sao? Vì chính quyền Việt Nam thừa biết rằng, tất cả chỉ là những tài liệu chính trị chống Việt Nam và cũng thừa biết chiêu bài nhân quyền của các cường quốc Âu Mỹ là đạo đức giả, có tính cách lưỡng chuẩn (double standard), thường để che đậy những mưu đồ chính trị sau bức bình phong nhân quyền. Những cuộc vận động ngoại nhân để làm áp lực đối với chính quyền Việt Nam mà không nghĩ tới những hậu quả nghiêm trọng có thể xâm phạm đến trật tự, an ninh và chủ quyền quốc gia, là những bước đi chính trị vụng về, thiếu trí tuệ, không nghĩ đến truyền thống yêu nước của người Việt Nam.

Ông Hà Vũ tuyên bố: “Đa đảng là con đường duy nhất để thực hiện một nước Việt Nam thực sự dân chủ, toàn vẹn lãnh thổ, giàu mạnh, công bằng và văn minh”. Đây là một câu nói vu vơ, ai nói cũng được. Là một trí thức đã được đào tạo bài bản ở Tây, ông Vũ phải chỉ ra một con đường là Việt Nam sẽ đi đến đa đảng và dân chủ như thế nào, đa đảng là bao nhiêu đảng, điều kiện để lập đảng là như thế nào, thế nào mới có thể gọi là một đảng, cá nhân nào, tổ chức nào có quyền lập đảng và trong bao lâu hay ngay lập tức với những luận cứ chặt chẽ về tình trạng xã hội hiện nay, về hình thức dân chủ, về giới hạn của nhân quyền, về giới hạn của tự do ngôn luận, về tinh thần trách nhiệm của người dân trước luật pháp, về trình độ dân trí, có ngoại quốc nhúng tay vào không…

Ai cũng biết tự do ngôn luận, tự do tôn giáo, dân chủ là tốt nhưng vấn đề là tự do tới mức nào và hình thức dân chủ ra sao. Không thể đi tới dân chủ mà không có sửa soạn. Làm sao để người dân thấm nhuần được ý thức một nền dân chủ riêng cho Việt Nam, trách nhiệm người dân trong thể chế dân chủ, bổn phận người dân góp sức cho dân chủ… Tất cả đều phải đi qua một quá trình giáo dục cần thời gian và tất cả đều phải rõ ràng trong giai đoạn sửa soạn tiến tới dân chủ để tránh những hành động vô cương vô pháp gây hỗn loạn trong xã hội, cảnh lạm dụng tự do ngôn luận, lạm dụng quyền tự do tôn giáo, hoặc cảnh “lắm thầy thối ma”. Đa đảng và dân chủ nghe hay lắm! Nhưng không đơn giản như chỉ cần tuyên bố đa đảng là con đường duy nhất để thực hiện một nước Việt Nam thực sự dân chủ. Mặt khác, trên thế giới ngày nay tôi đố ông Vũ tìm đâu ra một quốc gia thực sự dân chủ.
Tôi rất đồng cảm với quan niệm của Lê Dọn Bàn trong bài “Dân chủ và Đạo Kitô ở Việt Nam”.

“Dân chủ là thành quả của những vận động lâu dài và phải có sự tham dự của toàn bộ dân chúng trong một quốc gia và từ cả hai bộ phận cầm quyền và không cầm quyền – dĩ nhiên là không thể nhập cảng, không đến từ bất cứ áp lực nào bên ngoài và nếu có gây dựng ở trong, càng không thể đến từ những niềm tin tôn giáo. Dân chủ là hoa nở từ trí tuệ – hay thu hẹp hơn – ý thức chính trị xã hội – của dân chúng được phát triển – khi dân chúng thực sự đạt đến một trình độ ý thức trưởng thành, tự mình thấm nhuần được những quan niệm xã hội và chính trị sáng suốt, thuận tình hợp lý với cộng đồng của mình. Thêm nữa, không phải chỉ vài dăm bông hoa, nhưng cả một mùa hoa và cũng phải hết sức chăm sóc để sẽ nở mãi, qua năm tháng. Trong tình trạng Việt Nam, dân chủ phải đi đôi với dân trí và có lẽ điều này làm chúng ta nhớ kinh nghiệm của Phan Chu Trinh, một người rất sáng suốt và có lý tưởng, cùng can đảm, đã đi trước thời đại của ông”. (http://sachhiem.net)

Cũng như quan niệm của Nguyễn Tâm Bảo trên “Đàn Chim Việt”: “Việc dân chủ hóa phải là việc của người dân trong nước, xuất phát từ nhu cầu của chính họ, do chính họ đảm nhận trọng trách, do chính họ tiến hành, chứ không cần bất cứ sự trợ lực nào từ bên ngoài”.

Ông Cù Huy Hà Vũ cũng có vài hành động tốt, thí dụ như kiện Ủy ban Nhân dân tỉnh Thừa Thiên – Huế về quyết định cấp phép đầu tư xây dựng Dự án Khách sạn Life Resort trên đồi Vọng Cảnh. Nhưng phần lớn là ông đi kiện lung tung mà không suy nghĩ và lang bang vào những chuyện không rõ ràng như đòi dân chủ, đa nguyên đa đảng mà không đưa ra một mô thức nào cho dân chủ, đa nguyên đa đảng thích hợp với hoàn cảnh chính trị Việt Nam ngày nay và mặt khác những chuyện làm lung tung của ông chứng tỏ trình độ hiểu biết của ông còn thiếu sót nhiều cho nên đã có phản tác dụng, làm loãng đi giá trị của những việc làm có ích của ông.

Công hàm 1958 với chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam


Nội dung Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng được thể hiện rất thận trọng, đặc biệt là không hề có việc tuyên bố từ bỏ chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Gần đây Trung Quốc luôn rêu rao cái gọi là họ có chủ quyền không thể tranh cãi đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Việc Trung Quốc diễn giải nội dung Công hàm ngày 14/9/1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng như là một chứng cứ cho thấy Việt Nam đã công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là hết sức phiến diện và xuyên tạc nội dung, ý nghĩa của bản Công hàm đó, hoàn toàn xa lạ với nền tảng pháp lý của Việt Nam cũng như luật pháp quốc tế, bất chấp thực tế khách quan của bối cảnh lịch sử đương thời. Có thể nói, giải thích xuyên tạc Công hàm 1958 là một trong chuỗi những hành động có tính toán nhằm tạo cớ, từng bước hợp thức hóa yêu sách chủ quyền phi lý của họ đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.
Theo lý giải của Trung Quốc, ngày 4 tháng 9 năm 1958, Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai đã công khai tuyên bố với quốc tế quyết định của Chính phủ Trung Quốc về hải phận 12 hải lý kể từ đất liền của Trung Quốc và các đảo ngoài khơi, bao gồm cả quần đảo Tây Sa và Nam Sa (tức quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam). Sau đó, ngày 14/9/1958, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) Phạm Văn Đồng gửi Công hàm cho Thủ tướng Chu Ân Lai, nguyên văn như sau:
"Thưa Đồng chí Tổng lý,
Chúng tôi xin trân trọng báo tin để Đồng chí Tổng lý rõ: Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc.
Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa trên mặt biển. Chúng tôi xin kính gửi Đồng chí Tổng lý lời chào rất trân trọng".

Cần phải thấy rằng, các tuyên bố nói trên của Trung Quốc cũng như của VNDCCH ra đời trong bối cảnh có nhiều chuyển biến phức tạp và cấp bách đối với Trung Quốc về tình hình lãnh thổ trên biển theo luật pháp quốc tế cũng như diễn biến căng thẳng của vấn đề quân sự xung quanh eo biển Đài Loan.
Năm 1956, Liên Hợp Quốc bắt đầu tiến hành các hội nghị quốc tế bàn về Luật Biển, sau đó một số hiệp định được ký kết vào năm 1958, tuy nhiên vẫn chưa làm thỏa mãn yêu sách về lãnh hải của một số quốc gia.
Từ đầu thế kỷ XX, nhiều quốc gia đã bắt đầu chú ý tới nguồn lợi to lớn từ khoáng sản và tài nguyên biển, bộc lộ ý đồ mở rộng chủ quyền trên biển. Trung Quốc, dù trong lịch sử ít quan tâm đến biển, cũng bắt đầu chú ý đến việc mở mang, kiếm tìm những đặc quyền trên biển. Mặc dù lúc đó chưa phải là thành viên của Liên Hợp Quốc, nhưng Trung Quốc cũng bắt đầu chú ý đến việc lên tiếng với cộng đồng quốc tế nhằm giải quyết các vấn đề trên biển theo hướng có lợi cho Trung Quốc. Trong chiến lược cho tương lai, thì việc cạnh tranh trên biển, cũng như tìm kiếm những nguồn tài nguyên trên biển là một vấn đề được Trung Quốc đặt ra.
Trên thực tế, cũng từ đầu thế kỷ XX, Trung Quốc đã hình thành ý định nhòm ngó các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Rõ ràng, việc nhòm ngó các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam từ thế kỷ XX đã nằm trong chiến lược "lấn sân" của Trung Quốc về tham vọng mở rộng biên giới quốc gia trên biển.
Ngày 26/5/1950, chiến tranh Triều Tiên bùng nổ, Tổng thống Hoa Kỳ Harry S. Truman đã ra lệnh cho Hạm đội 7 tiến vào eo biển Đài Loan, ngăn chặn cuộc tấn công của Trung Quốc nhắm vào các đảo trên eo biển Đài Loan. Với hành động này, Mỹ đã thực sự bảo hộ Đài Loan, mặc cho Trung Quốc kịch liệt lên án. Để tỏ rõ quyết tâm giải phóng Đài Loan, ngày 3/9/1954, Trung Quốc đã tấn công trừng phạt đối với các hòn đảo ven biển như Kim Môn, Mã Tổ. Các nhà chép sử gọi đây là cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan lần thứ nhất.
Ngày 11/8/1954, Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai tuyên bố sẽ "giải phóng" Đài Loan, và tăng cường pháo kích vào hai đảo Kim Môn và Mã Tổ.
Ngày 12/9/1954, Chủ tịch Hội đồng Liên quân Hoa Kỳ đưa ra dự tính tấn công Trung Quốc bằng vũ khí nguyên tử nhưng Tổng thống Eisenhower đã do dự sử dụng vũ khí nguyên tử cũng như sự liên can của quân đội Hoa Kỳ vào cuộc chiến này.
Năm 1958, tiếp tục xảy ra cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan lần thứ hai. Ngày 23/8/1958 Trung Quốc đột ngột tăng cường nã pháo vào đảo Kim Môn. Theo Hiệp định Phòng thủ tương hỗ giữa Đài Loan-Hoa Kỳ, Tổng thống Eisenhower đã ra lệnh cho tàu chiến Hoa Kỳ đến bảo vệ đường tiếp tế hậu cần từ đảo Đài Loan đến 2 đảo tiền tiêu Kim Môn và Mã Tổ.
Ngoài bối cảnh "phức tạp và cấp bách" đối với Trung Quốc như đã nêu trên, theo Thạc sĩ Hoàng Việt (Quỹ Nghiên cứu Biển Đông), Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng ra đời trong bối cảnh quan hệ đặc thù VNDCCH -Trung Quốc lúc đó "vừa là đồng chí vừa là anh em". Năm 1949, bộ đội Việt Nam còn tấn công và chiếm vùng Trúc Sơn thuộc lãnh thổ Trung Quốc từ tay các lực lượng khác rồi trao trả lại cho Quân giải phóng Trung Quốc. Năm 1957, Trung Quốc chiếm giữ đảo Bạch Long Vĩ của Việt Nam từ tay một số lực lượng khác, rồi sau đó cũng trao trả cho Việt Nam. Điều này cho thấy quan hệ đặc thù của hai nước VNDCCH – Trung Quốc lúc bấy giờ. Do vậy, trong tình hình lãnh thổ Trung Quốc đang bị đe dọa chia cắt, cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan lần thứ hai khiến Hải quân Hoa Kỳ đưa tàu chiến vào can thiệp, việc Trung Quốc ra tuyên bố về lãnh hải bao gồm đảo Đài Loan trước hết nhằm khẳng định chủ quyền trên biển của Trung Quốc trong tình thế bị đe dọa tại eo biển Đài Loan. Tuy nhiên, Trung Quốc vẫn không quên mục đích "sâu xa" của họ trên Biển Đông nên đã "lồng ghép" thêm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam vào bản tuyên bố.
Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng xuất phát từ mối quan hệ rất đặc thù với Trung Quốc trong thời điểm VNDCCH đang rất cần tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ của các quốc gia trong khối xã hội chủ nghĩa bấy giờ và là một cử chỉ ngoại giao tốt đẹp thể hiện quan điểm ủng hộ của VNDCCH trong việc tôn trọng lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc trước các diễn biến quân sự phức tạp trên eo biển Đài Loan.
Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã phát biểu những lời ủng hộ Trung Quốc trong hoàn cảnh hết sức khẩn trương, chiến tranh chuẩn bị leo thang, Hạm đội 7 của Mỹ đang tiến vào eo biển Đài Loan và đe dọa Trung Quốc.
Nội dung Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng được thể hiện rất thận trọng, đặc biệt là không hề có việc tuyên bố từ bỏ chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Bởi, hơn ai hết, chính Thủ tướng VNDCCH thấu hiểu quyền tuyên bố về lãnh thổ quốc gia thuộc thẩm quyền cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất là Quốc hội, và việc bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ quốc gia luôn luôn là mục tiêu hàng đầu đối với Nhà nước và nhân dân Việt Nam, nhất là trong hoàn cảnh ra đời của Công hàm như đã nêu trên.
Công hàm 1958 có hai nội dung rất rõ ràng: Một là, Chính phủ VNDCCH ghi nhận và tán thành việc Trung Quốc mở rộng lãnh hải ra 12 hải lý; Hai là, Chính phủ VNDCCH chỉ thị cho các cơ quan nhà nước tôn trọng giới hạn lãnh hải 12 hải lý mà Trung Quốc tuyên bố.
Trong Công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng không có từ nào, câu nào đề cập đến vấn đề lãnh thổ và chủ quyền, càng không nêu tên bất kỳ quần đảo nào như Trung Quốc đã nêu. Do vậy, chỉ xét về câu chữ trong một văn bản có tính chất ngoại giao cũng dễ dàng nhận thấy mọi suy diễn cho rằng Công hàm 1958 đã tuyên bố từ bỏ chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và coi đó là bằng chứng khẳng định Việt Nam đã thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo này là xuyên tạc lịch sử và hoàn toàn không có cơ sở pháp lý.
Tại Hội nghị San Francisco 1951, các quốc gia tham dự đã bác bỏ yêu sách về chủ quyền của Trung Quốc trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Cũng tại hội nghị này, Việt Nam đã long trọng tuyên bố chủ quyền lâu đời và liên tục của mình trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong phiên họp toàn thể mà không có bất kỳ sự phản đối hay ý kiến gì khác của tất cả các quốc gia tham dự. Điều đó có nghĩa là kể từ năm 1951, cộng động quốc tế đã thừa nhận chủ quyền lịch sử và pháp lý của Việt Nam tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Những tuyên bố đơn phương về chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo này theo luật pháp quốc tế là vô hiệu.
Hiệp định Genève 1954, mà Trung Quốc là một nước tham gia chính thức, cũng thừa nhận chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về người Việt Nam. Các điều khoản trong Hiệp định cũng yêu cầu các quốc gia tham dự Hội nghị cam kết tôn trọng chủ quyền độc lập, nền thống nhất quốc gia và sự toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Do vậy, phần tuyên bố về chủ quyền của Trung Quốc liên quan tới hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam trong bản tuyên bố ngày 4/9/1958 về cơ sở pháp lý quốc tế đương nhiên được xem là không có hiệu lực.
Trong Công hàm 1958, Thủ tướng Phạm Văn Đồng không hề đề cập đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Vì điều đó là không cần thiết, bởi theo Hiệp định Genève 1954, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm phía Nam vĩ tuyến 17 tạm thời thuộc quyền quản lý của Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa (VNCH). Trong thời điểm đó, dưới góc độ tài phán quốc tế, thì Chính phủ VNDCCH không có nghĩa vụ và quyền hạn hành xử chủ quyền tại hai quần đảo này theo luật pháp quốc tế.
Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng đương nhiên chỉ tán thành những tuyên bố của Trung Quốc có nội dung hợp pháp được cộng đồng quốc tế thừa nhận trên cơ sở luật pháp quốc tế cho đến giai đoạn đó. Một phần nội dung của bản tuyên bố ngày 4/9/1958 của Trung Quốc đã vi phạm nghiêm trọng chủ quyền quốc gia về lãnh thổ của Việt Nam, đồng thời cũng vi phạm nghiêm trọng các cơ sở pháp lý về chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà cộng đồng quốc tế đã thừa nhận cũng như đã nhiều lần tái thừa nhận một cách minh thị là thuộc chủ quyền của Việt Nam. Chính phủ VNDCCH trong bối cảnh quan hệ hữu nghị rất đặc thù với Trung Quốc đã khẳng định lập trường ghi nhận, tán thành tuyên bố giới hạn 12 hải lý về lãnh hải của Trung Quốc, còn những nội dung cụ thể diễn giải vượt quá phạm vi chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc theo các hiệp ước quốc tế đã không được đề cập tới như là một sự mặc nhiên thừa nhận sự vô hiệu của nó dưới ánh sáng của pháp luật quốc tế.
Trong khi đó, Chính quyền VNCH, theo Hiệp định Genève 1954, đã liên tục thực thi chủ quyền lâu đời của người Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa bằng các văn bản hành chính nhà nước cũng như bằng việc triển khai thực thi chủ quyền thực tế trên hai quần đảo này. Đỉnh cao của sự khẳng định chủ quyền Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong giai đoạn này là trận hải chiến quyết liệt của Hải quân VNCH chống lại sự xâm lược của tàu chiến và máy bay Trung Quốc tại quần đảo Hoàng Sa năm 1974.
Công hàm ngày 14-9-1958 của Thủ tướng VNDCCH Phạm Văn Đồng [/COLOR]
Trong bối cảnh lịch sử đặc biệt nêu trên càng thấy rõ một sự thật hiển nhiên là Công hàm ngày 14/9/1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng đơn giản chỉ ghi nhận lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc, không hề nhắc lại các nội dung mập mờ liên quan đến các quần đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam. Về thực chất, Công hàm 1958 thể hiện một thái độ chính trị, một cử chỉ hữu nghị với tuyên bố giới hạn lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc. Thực là phi lý, nếu cố tình suy diễn và xuyên tạc (như lập luận phía Trung Quốc), cho rằng Thủ tướng Phạm Văn Đồng, người con ưu tú của dân tộc, lại ký văn bản từ bỏ lãnh thổ và chủ quyền của đất nước trong khi chính ông và cả dân tộc Việt Nam đã chiến đấu hết mình để giành độc lập, tự do.
Có lẽ cần phải nhấn mạnh rằng tất cả những hành động ngoại giao của Thủ tướng Phạm Văn Đồng trong Công hàm 1958 có thể hiểu không phải là ông không nhìn thấy mọi ý đồ của Trung Quốc đối với cách mạng Việt Nam vì ông đã có kinh nghiệm trong bàn đàm phán Genève năm 1954, khi mà Trung Quốc đã có không ít động thái rất bất lợi cho VNDCCH. Nội dung Công hàm ngày 14/9/1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng phù hợp với hoàn cảnh và mối quan hệ đặc thù giữa VNDCCH và Trung Quốc bấy giờ, đồng thời cũng hàm chứa thái độ không bao giờ từ bỏ chủ quyền của người Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đó cũng là quan điểm nhất quán của Việt Nam, bởi từ năm 1945 đến nay, Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Quốc hội Việt Nam Cộng hòa, Mặt trận DTGPMN Việt Nam và sau đó là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và hiện nay là Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam chưa bao giờ lên tiếng hoặc ra nghị quyết từ bỏ chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Một cơ sở nữa trên phương diện pháp lý, nước VNDCCH lúc đó không trực tiếp quản lý đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trước năm 1975, các quốc gia và lãnh thổ tranh chấp gồm: Trung Quốc, Đài Loan, Việt Nam Cộng hòa và Philippines. Như vậy, những lời tuyên bố của VNDCCH xem như lời tuyên bố của một quốc gia thứ ba không có ảnh hưởng đến vụ tranh chấp. Tuy nhiên, có tác giả đã cố tình nêu thuyết "estoppel" để suy diễn những lời tuyên bố đó có hiệu lực bó buộc đối với Việt Nam.
Theo luật quốc tế, không có một văn bản pháp lý nào có thể gắn cho những lời tuyên bố đơn phương một tính chất bó buộc, ngoại trừ thuyết "estoppel". Mục đích chính của nó ngăn chặn trường hợp một quốc gia có thể hưởng lợi vì những thái độ bất nhất của mình, và do đó, gây thiệt hại cho quốc gia khác. Vì vậy, estoppel phải hội đủ các điều kiện chính:
(1) Lời tuyên bố hoặc hành động phải do một người hoặc cơ quan đại diện cho quốc gia phát biểu và phải được phát biểu một cách minh bạch;
(2) Quốc gia nại "estoppel" phải chứng minh rằng mình đã dựa trên những lời tuyên bố hoặc hoạt động của quốc gia kia, mà có những hoạt động nào đó, hoặc không hoạt động;
(3) Quốc gia nại "estoppel" cũng phải chứng minh rằng, vì dựa vào lời tuyên bố của quốc gia kia, mình đã bị thiệt hại, hoặc quốc gia kia đã hưởng lợi khi phát biểu lời tuyên bố đó;
(4) Nhiều bản án còn đòi hỏi lời tuyên bố hoặc hoạt động phải được phát biểu một cách liên tục và lâu dài. Thí dụ: bản án "Phân định biển trong vùng Vịnh Maine", bản án "Những hoạt động quân sự và bán quân sự tại Nicaragua", bản án "Ngôi đền Preah Vihear"…
Áp dụng những nguyên tắc trên của estoppel vào những lời tuyên bố của VNDCCH, chúng ta thấy thiếu điều kiện 2 và 3 đã nêu ở trên. Năm 1956, năm 1958 và năm 1965, Trung Quốc đã không có thái độ nào, hoặc thay đổi thái độ vì dựa vào lời tuyên bố của VNDCCH. Trung Quốc cũng không thể chứng minh được rằng mình bị thiệt hại gì do dựa vào những lời tuyên bố đó. VNDCCH cũng không được hưởng lợi gì khi có những lời tuyên bố đó.
Trong suốt quá trình thực hiện mưu đồ bá chủ trên Biển Đông, Trung Quốc đã không ít lần đưa ra các tài liệu xuyên tạc lịch sử, biến có thành không, biến không thành có, tung hỏa mù để cố tình làm sai lệch nhận thức của chính nhân dân Trung Quốc cũng như của cộng đồng quốc tế về vấn đề này theo hướng có lợi cho mưu đồ của Trung Quốc. Tuy nhiên, trước những bằng chứng hiển nhiên của sự thật lịch sử và dưới ánh sáng của luật pháp quốc tế những hành vi xuyên tạc, tung hỏa mù, cố tình làm cho cộng đồng quốc tế ngộ nhận càng khiến cho Trung Quốc lộ rõ âm mưu cũng như thủ đoạn của họ trong suốt quá trình áp đặt ý đồ "nuốt trọn" Biển Đông, theo kiểu "miệng nói hòa bình không xưng bá, tay làm phức tạp hoá tình hình".

Bản gốc tại đây
[/ALIGN]

Một số nhân sĩ gửi kiến nghị bảo vệ và phát triển đất nước

"Độc lập, tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ đang bị uy hiếp"

Trước tình hình Biển Đông nóng lên, nhóm nhân sĩ cho rằng, "Độc lập, tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ của nước ta đang bị uy hiếp, xâm phạm nghiêm trọng".

"Từ khát vọng trở thành siêu cường, với vai trò là "công xưởng thế giới" và chủ nợ lớn nhất của thế giới, dưới chiêu bài "trỗi dậy hòa bình", Trung Quốc đang ra sức phát huy quyền lực dưới mọi hình thức, nhằm thâm nhập và lũng đoạn nhiều quốc gia trên khắp các châu lục…Thời gian gần đây, Trung Quốc đã có những bước leo thang nghiêm trọng trong việc thực hiện âm mưu độc chiếm Biển Đông với nhiều hành động bất chấp luật pháp quốc tế, ngang nhiên xâm phạm chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải của các quốc gia giáp Biển Đông. Trung Quốc tự ý vạch ra cái gọi là "đường chữ U 9 đoạn", thường được gọi là "đường lưỡi bò", chiếm hơn 80% diện tích Biển Đông, nhiều lần tuyên bố trước thế giới toàn bộ vùng "lưỡi bò" này thuộc chủ quyền không thể tranh cãi của Trung Quốc và đã liên tục tiến hành nhiều hoạt động bất hợp pháp trên Biển Đông để khẳng định yêu sách trái luật quốc tế này.

Hiện nay Trung Quốc đang ráo riết tăng cường lực lượng hải quân, chuẩn bị giàn khoan lớn, tiến hành nhiều hoạt động quân sự hoặc phi quân sự ngày càng sâu vào vùng biển các quốc gia trong vùng này, gắn liền với những hoạt động chia rẽ các nước ASEAN trong quan hệ với Trung Quốc.

Trên vùng Biển Đông thuộc lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, năm 1974 Trung Quốc đã tấn công chiếm nốt các đảo ở Hoàng Sa, năm 1988 đánh chiếm thêm 7 đảo và bãi đá thuộc quần đảo Trường Sa của ta; từ đó đến nay thường xuyên tiến hành các hoạt động uy hiếp và xâm phạm vùng biển thuộc chủ quyền của nước ta, như tự ý ra lệnh cấm đánh bắt cá trên Biển Đông, xua đuổi, bắt giữ, cướp tài sản của các tàu đánh cá trên vùng này, gây sức ép để ngăn chặn hoặc đòi hủy bỏ các hợp đồng mà các tập đoàn kinh doanh dầu khí của nước ngoài đang hợp tác với Việt Nam, liên tục cho các tàu hải giám đi tuần tra như đi trên biển riêng của nước mình. Gần đây nhất, tàu Trung Quốc cắt cáp quang và thực hiện nhiều hành động phá hoại khác đối với tàu Bình Minh 02 và tàu Viking II của ta đang hoạt động trong vùng thuộc đặc quyền kinh tế của Việt Nam; đó là những bước leo thang nghiêm trọng trong các chuỗi hoạt động uy hiếp, lấn chiếm vùng biển của nước ta.

Vị trí địa lý tự nhiên, vị thế địa chính trị và địa kinh tế trong bối cảnh quốc tế hiện nay khiến cho Việt Nam bị Trung Quốc coi là chướng ngại vật trên con đường tiến ra biển phía Nam để vươn lên thành siêu cường…", bản kiến nghị viết.

Từ phân tích trên, nhóm nhân sĩ cho rằng "xem xét cục diện quan hệ hai nước, phải nhìn nhận thẳng thắn rằng Trung Quốc đã đi được những bước quan trọng trong việc thực hiện ý đồ chiến lược của họ".

Kiến nghị dẫn chứng: Nhập siêu của ta từ Trung Quốc mấy năm qua tăng rất nhanh (năm 2010 gấp 2,8 lần năm 2006) và từ năm 2009 xấp xỉ bằng kim ngạch xuất siêu của nước ta với toàn thế giới. Hiện nay, nước ta phải nhập khẩu từ Trung Quốc khoảng 80-90% nguyên vật liệu cho công nghiệp gia công của ta, một khối lượng khá lớn xăng dầu, điện, nguyên liệu và thiết bị cho những ngành kinh tế khác; khoảng 1/5 kim ngạch nhập khẩu từ Trung Quốc là hàng tiêu dùng, chưa kể một khối lượng tương đương như thế vào nước ta theo đường nhập lậu. Đặc biệt nghiêm trọng là trong những năm gần đây, 90% các công trình kinh tế quan trọng như các nhà máy điện, luyện kim, hóa chất, khai thác bô-xít, khai thác ti-tan… được xây dựng theo kiểu chìa khóa trao tay (EPC) rơi vào tay các nhà thầu Trung Quốc với nhiều hệ quả khôn lường.

Trong khi đó Trung Quốc nhập khẩu từ nước ta chủ yếu dưới dạng vơ vét nguyên liệu, nông sản và khoáng sản, với nhiều hệ quả tàn phá môi trường. Ngoài ra còn nạn cho Trung Quốc thuê đất, thuê rừng ở vùng giáp biên giới, nạn tiền giả từ Trung Quốc tung vào. Sự yếu kém của nền kinh tế trong nước chính là mảnh đất màu mỡ cho sự xâm nhập, thậm chí có mặt chi phối, lũng đoạn về kinh tế của Trung Quốc. Chưa nói tới hệ quả khôn lường của việc Trung Quốc xây nhiều đập trên thượng nguồn hai con sông lớn chảy qua nước ta.

Cũng không thể xem thường sự xâm nhập của Trung Quốc vào các nước xung quanh ta. Nếu Trung Quốc thực hiện được mưu đồ độc chiếm Biển Đông, Việt Nam coi như bị bịt đường đi ra thế giới bên ngoài.

Trong khi đó tình hình đất nước lại có nhiều khó khăn và mối nguy lớn…

Theo các nhân sĩ trên, do "vị trí địa lý nước ta không thể chuyển dịch đi nơi khác, nên toàn bộ thực tế hiện nay buộc dân tộc ta phải tạo được bước ngoặt có ý nghĩa quyết định đối với vận mệnh của đất nước: Là nước láng giềng bên cạnh Trung Quốc đầy tham vọng đang trên đường trở thành siêu cường, Việt Nam phải bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền quốc gia, trở thành một đối tác được Trung Quốc tôn trọng, tạo ra một mối quan hệ song phương thật sự vì hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển.

Mặt trận gìn giữ lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, biển đảo, vùng trời của nước ta trong Biển Đông đang rất nóng do các bước leo thang lấn chiếm ngày càng nghiêm trọng của Trung Quốc… Tuy nhiên, mặt trận nguy hiểm nhất đối với nước ta mà Trung Quốc muốn dồn quyền lực và ảnh hưởng để thực hiện, đó là: thâm nhập, lũng đoạn mọi mặt đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa của nước ta…

Sự xuất hiện một Trung Quốc đang cố trở thành siêu cường với nhiều mưu đồ và hành động trái luật pháp quốc tế, bất chấp đạo lý, gây nhiều tác động xáo trộn thế giới, tạo ra một cục diện mới đối với nước ta trong quan hệ quốc tế: Hầu hết mọi quốc gia trên thế giới, có lẽ ngoại trừ Trung Quốc, đều mong muốn có một Việt Nam độc lập tự chủ, giàu mạnh, phát triển, có khả năng góp phần xứng đáng vào gìn giữ hòa bình và ổn định trong khu vực, thúc đẩy những mối quan hệ hữu nghị, hợp tác vì sự bình yên và phồn vinh của tất các các nước hữu quan trong khu vực và trên thế giới"

Các nhân sĩ này cho rằng: "cục diện thế giới mới này là cơ hội lớn, mở ra cho đất nước ta khả năng chưa từng có trong công cuộc phát triển và bảo vệ Tổ quốc, qua đó giành được cho nước ta vị thế quốc tế xứng đáng trong thế giới văn minh ngày nay. Để vươn lên giành thời cơ, thoát hiểm họa, cả dân tộc ta, từ người lãnh đạo, cầm quyền đến người dân thường phải dấn thân cùng với cả nhân loại tiến bộ đấu tranh cho những giá trị đang là nền tảng cho một thế giới tiến bộ, đó là hòa bình, tự do dân chủ, quyền con người, bảo vệ môi trường"

Kiến nghị 5 điểm

Từ những phân tích trên, các nhân sĩ "khẩn thiết kiến nghị với Quốc hội và Bộ Chính trị"

1. Công bố trước toàn thể nhân dân ta và nhân dân toàn thế giới thực trạng quan hệ Việt – Trung; nêu rõ những căn cứ phù hợp với luật pháp quốc tế, có sức thuyết phục về chủ quyền của Việt Nam đối với biển đảo ở vùng Biển Đông để làm sáng tỏ chính nghĩa của nước ta; khẳng định thiện chí trước sau như một của nước ta xây dựng, gìn giữ quan hệ hữu nghị, hợp tác láng giềng tốt với Trung Quốc, nhưng quyết tâm bảo vệ độc lập, chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia của mình … Chúng ta luôn phân biệt những mưu đồ và hành động phi đạo lý và trái luật pháp quốc tế của một bộ phận giới lãnh đạo Trung quốc, khác với tình cảm và thái độ thân thiện của đông đảo nhân dân Trung quốc đối với nhân dân Việt Nam. Chúng ta sẵn sàng là bạn và đối tác tin cậy của tất cả các nước, đặc biệt coi trọng quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước Đông Nam Á và các nước lớn, cùng với các nước có liên quan giải quyết hoà bình các vấn đề tranh chấp ở Biển Đông.

2. Trình bày rõ với toàn dân thực trạng đất nước hiện nay, thức tỉnh mọi người về những nguy cơ đang đe dọa vận mệnh của Tổ quốc, dấy lên sự đồng lòng và quyết tâm của toàn dân đem hết sức mạnh vật chất, tinh thần, trí tuệ để bảo vệ và phát triển đất nước. Cải cách sâu sắc, toàn diện về giáo dục và kinh tế ngày càng trở thành yêu cầu cấp thiết, là kế sâu rễ bền gốc để nâng cao dân trí, dân tâm, dân sinh làm cơ sở cho quá trình tự cường dân tộc và nền tảng cho sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước.

3. Tìm mọi cách thực hiện đầy đủ các quyền tự do, dân chủ của nhân dân đã được Hiến pháp quy định, nhằm giải phóng và phát huy ý chí và năng lực của nhân dân cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tận dụng được cơ hội mới, đáp ứng được những đòi hỏi và thách thức mới của tình hình khu vực và thế giới hiện nay.

4. Kêu gọi toàn thể quốc dân đồng bào, mọi người Việt Nam ở trong nước và ở nước ngoài, không phân biệt chính kiến, tôn giáo, dân tộc, địa vị xã hội, hãy cùng nhau thực hiện hòa hợp, hòa giải, đoàn kết dân tộc với lòng yêu nước, tinh thần vị tha và khoan dung. Tất cả hãy cùng nhau khép lại quá khứ, đặt lợi ích quốc gia lên trên hết, để từ nay tất cả mọi người đều một lòng một dạ cùng nắm tay nhau đứng chung trên một trận tuyến vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, cùng nhau dốc lòng đem hết trí tuệ, nghị lực sáng tạo và nhiệt tình yêu nước xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của chúng ta.

5. Lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam với tính cách là đảng cầm quyền duy nhất và cũng là người chịu trách nhiệm toàn diện về tình hình đất nước hiện nay, đặt lợi ích quốc gia lên trên hết, giương cao ngọn cờ dân tộc và dân chủ đẩy mạnh cuộc cải cách chính trị, giải phóng mọi tiềm năng của nhân dân cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đẩy lùi mọi tệ nạn tham nhũng và tha hóa, đưa đất nước thoát ra khỏi tình trạng yếu kém và lệ thuộc hiện nay, chuyển sang thời kỳ phát triển bền vững, đưa dân tộc ta đồng hành với cả nhân loại tiến bộ vì hòa bình, tự do dân chủ, quyền con người, bảo vệ môi trường.

Tuan VietNamNet Thứ năm, ngày 14 tháng 07 năm 2011 | 09:56 (GMT+7)

Cần sớm thoát khỏi sự lệ thuộc về kinh tế


Biểu hiện cụ thể là tình hình nhập siêu ngày càng nặng nề với nước láng giềng này đang là bài toán khó.
Nhập siêu của Việt Nam và Trung Quốc đã tăng liên tục kể từ khi hiệp định tự do mậu dịch ASEAN-Trung Quốc có hiệu lực ngày 1/7/2005. Những năm gần đây mức nhập siêu này đã tăng rất nhanh từ 2,67 tỉ USD năm 2005 vọt lên tới 12,7 tỉ USD năm 2010, tức là gần gấp năm lần. Con số này khiến chúng ta bức xúc hơn khi 10 năm trước, tức vào năm 2000, thặng dư thương mại của Việt Nam với Trung Quốc là 130 triệu USD.
Theo các số liệu do Tổng cục Thống kê công bố, chỉ trong năm tháng đầu năm 2011 mức nhập siêu của Việt Nam đã lên tới khoảng 6,5 tỉ USD mà trong đó phần lớn vẫn là nhập siêu từ Trung Quốc (nhưng đáng tiếc là không thấy cơ quan này công bố số liệu cụ thể).
Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) thuộc Trường đại học Kinh tế (Đại học Quốc gia Hà Nội) trong một báo cáo công bố gần đây đã cho rằng, mức độ thâm nhập kinh tế của Trung Quốc vào nước ta đang ngày càng tăng trong đa số các sản phẩm, từ máy móc, thiết bị đến hàng tiêu dùng. Theo đó các ngành sản xuất Trung Quốc thâm nhập nhiều nhất hiện nay tập trung vào một số lĩnh vực như điện lực, dầu khí, cơ khí, luyện kim, khai khoáng, hóa chất.
Góp phần lớn nhất vào tình hình này xuất phát từ hàng loạt gói thầu các công ty Trung Quốc giành được với rất nhiều hợp đồng EPC (Engineering, procurement and construction – Thiết kế, mua sắm và xây dựng). Loại hợp đồng nói trên thường được thực hiện trong lĩnh vực xây dựng các nhà máy điện (của Tập đoàn Điện lực VN), mỏ (như bauxit Tân Rai, Nhân Cơ, đồng của Tập đoàn Than Khoáng sản VN-TKV), hóa chất (phân đạm Hà Bắc), giao thông (như xây dựng, cải tạo đường sá ở TP. Hồ Chí Minh, đường sắt trên cao ở Hà Nội)…, qua đó các công ty Trung Quốc nhập từ máy móc, thiết bị, vật liệu, đến sắt thép và thậm chí cả nhân công vào VN. Điều này càng bộc lộ sự yếu kém của các tập đoàn kinh tế nhà nước trong vai trò chủ đạo nhưng thường buông bỏ trận địa chính mà đầu tư vào lĩnh vực ngoài ngành nghề.
Theo phân tích của VEPR thì chính sách thương mại và công nghiệp của Việt Nam chưa phát huy được tác dụng trước làn sóng hàng Trung Quốc đa dạng và giá rẻ. Việt Nam cũng thiếu vắng những hàng rào kỹ thuật đối với hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc. Không những thế, Trung Quốc lại biết tận dụng lợi thế của các thỏa thuận thương mại khu vực.
Trong khi đó, hàng hóa của Việt Nam không có khả năng cạnh tranh về giá cả lẫn chất lượng nên khó thâm nhập thị trường Trung Quốc. Lâu nay, nhóm hàng xuất khẩu chủ yếu sang Trung Quốc là khoáng sản và nông lâm thủy sản với số lượng nhỏ, giá cả bấp bênh và tình hình này hiện vẫn chưa có gì thay đổi.
Có thể thấy nguyên nhân sâu xa của căn bệnh nhập siêu lớn với Trung Quốc là từ chính sách phát triển và cơ cấu nền kinh tế, cho nên việc giảm nhập siêu với Trung Quốc là vấn đề nan giải mà chủ yếu vẫn là phải sớm thay đổi cơ cấu nền kinh tế, cải tổ hoạt động của khu vực quốc doanh nói riêng để nâng cao hiệu quả của các doanh nghiệp Việt Nam nói chung.
Bài toán nhập siêu từ Trung Quốc, theo tiến sĩ Nguyễn Đức Thành, Giám đốc VEPR, cần có các giải pháp đồng bộ không chỉ về chính sách thương mại mà cả về chính sách đầu tư, chính sách công nghiệp trong cơ chế chọn nhà thầu.
Ai cũng biết nhập khẩu công nghệ, thiết bị là nhằm phục vụ cho sản xuất, xuất khẩu và tiêu dùng. Muốn thỏa mãn yêu cầu này thì chúng ta phải nhập khẩu đủ lượng nguyên phụ liệu sản xuất tương ứng. Và trong việc nhập khẩu nguyên phụ liệu phục vụ sản xuất thì Việt Nam nhập nhiều từ Trung Quốc vì giá cả, chất lượng nguyên liệu của Trung Quốc tương đối hợp lý, chưa kể Trung Quốc cũng là thị trường gần, chi phí vận tải thấp. Thế nhưng thực tế cho thấy, nhập siêu từ nước láng giềng đang ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nhập siêu của Việt Nam đã đến mức báo động.
Trong năm nhóm hàng mà Việt Nam nhập nhiều nhất gồm thiết bị máy móc phụ tùng, xăng dầu, sắt thép, phân bón, nguyên phụ liệu dệt may thì Trung Quốc đều có tên ở năm vị trí đầu. Các số liệu thống kê cho thấy, trong năm 2010 chúng ta nhập từ Trung Quốc tới 56% sắt thép, 40% phân bón, 70% nguyên phụ liệu dệt may, 37% vải, 17,7% xăng dầu, 27% phụ tùng, máy móc, thiết bị, 28% máy tính, linh kiện…
Nếu nguồn cung này biến động theo chiều hướng xấu thì ngay lập tức không chỉ thị trường nội địa mà cả kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam trên thị trường Mỹ và EU cũng sẽ bị ảnh hưởng.
Rõ ràng danh mục hàng hóa mà Việt Nam phụ thuộc Trung Quốc ngày càng trở nên nhạy cảm hơn và có mối ràng buộc sâu sắc tới huyết mạch của kinh tế.
Báo chí trong nước trích lời tiến sĩ Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam cho rằng trong quan hệ thương mại với Trung Quốc, Việt Nam đóng vai trò chuyên trách cung cấp nguyên, nhiên liệu và nông sản thô cho Trung Quốc, còn Trung Quốc thì xuất khẩu sản phẩm công nghiệp công nghệ thấp và trung bình cho Việt Nam với khối lượng lớn vượt trội.
Với cục diện như vậy, nếu không có sự quyết liệt và cải cách chiến lược xuất nhập khẩu sớm, chúng ta không những lún sâu vào nhập siêu với Trung Quốc mà còn phải trả giá đắt nếu nhập siêu đó là không an toàn, không chất lượng.
Để giảm nhập siêu từ Trung Quốc trong thời gian tới, ý kiến được đưa ra trong nhiều cuộc hội thảo cho rằng có hai hướng giải pháp cần thiết. Thứ nhất, phải tăng cường xuất khẩu với tốc độ xuất khẩu cao hơn tốc độ tăng của nhập khẩu để dần thu hẹp nhập siêu. Thứ hai, cần phải đẩy mạnh đầu tư vào ngành công nghiệp phụ trợ và sản xuất nguyên liệu hỗ trợ. Bộ Công Thương vừa trình Chính phủ phê duyệt đề án khuyến khích phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ sản xuất nguyên phụ liệu phục vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu, trong đó, Việt Nam kêu gọi các doanh nghiệp ở nước phát triển như Hàn Quốc, Nhật Bản… đầu tư vào ngành công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam.
Nhưng quan trọng hơn cả là Chính phủ cần có chủ trương ở tầm vĩ mô trong bối cảnh địa chính trị hiện nay để đưa nền kinh tế giảm bớt sự lệ thuộc vào người láng giềng phương Bắc. Kinh nghiệm của nhiều nước đã và đang lệ thuộc từ đồng vốn đến kỹ thuật của Trung Quốc là bài học đáng cho chúng ta suy ngẫm. Sẽ khó khăn giữ được độc lập về chính trị khi không có được độc lập về kinh tế. Chính vì vậy việc sớm thoát khỏi sự lệ thuộc kinh tế phải được đặt ra ngay từ bây giờ, dù quá muộn còn hơn không.

Theo Tổng cục Thống kê, năm 2010 Việt Nam nhập từ Trung Quốc 20,02 tỉ USD hàng hóa, trong đó các mặt hàng chính gồm: máy móc thiết bị, phụ tùng (22,37%); bông, vải, sợi, nguyên phụ liệu dệt may, da giày (15,64%); sắt thép, sản phẩm từ sắt thép, kim loại (11,39%); máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện (8,41%); xăng dầu, khí hóa lỏng, sản phẩm từ dầu mỏ (6,97%); hóa chất, sản phẩm hóa chất (4,56%); chất dẻo nguyên liệu và sản phẩm (2,9%); phân bón, thuốc trừ sâu (2,25%).
Nhập khẩu nguyên liệu, bán thành phẩm để tiêu thụ hay sản xuất các mặt hàng tiêu thụ trong nước (thay thế hàng nhập khẩu) cũng chiếm tỷ lệ đáng kể (điện tử, máy tính, xăng, phân bón, thuốc trừ sâu).

– Giai đoạn 1996-2000, tỷ trọng giá trị nhập khẩu từ Trung Quốc chiếm 5,4% tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam.
– Giai đoạn 2001-2005, tỷ trọng này đã tăng lên 13,4%.
– Năm 2008 tỷ trọng giá trị nhập khẩu từ Trung Quốc chiếm 19,8% tổng kim ngạch.
– Năm 2009 tỷ trọng giá trị nhập khẩu từ Trung Quốc tăng lên 25%.
– Năm 2010, Việt Nam chi 19,1 tỉ USD để mua hàng nhập khẩu từ Trung Quốc, trong khi xuất khẩu đối ứng 6,4 tỉ USD.
– Năm 2000, Việt Nam đạt thặng dư thương mại với Trung Quốc 135 triệu USD.
– Năm 2001, thâm hụt trong cán cân thương mại giữa Việt Nam với Trung Quốc 200 triệu USD.
– Năm 2007, nhập siêu từ Trung Quốc của Việt Nam là 9,145 tỉ USD.
– Năm 2008, con số này là 11,16 tỉ USD.
– Năm 2009, tăng lên 11,532 tỉ USD.
– Năm 2010, nhập siêu từ Trung Quốc lên đến 12,7 tỉ USD.
– Năm 2011 dự kiến tăng lên 17 tỉ USD.
Nguồn: Thống kê tổng hợp

Tác giả: Phạm Thành Sơn
Theo VietNamNet, 3.7.2011

Báo cáo bổ sung tình hình kinh tế – xã hội năm 2010 và những giải pháp chủ yếu cho năm 2011


… Thay mặt Chính phủ và đồng chí Thủ tướng, tôi xin báo cáo với Quốc hội và đồng bào cả nước một số nội dung chính về tình hình kinh tế – xã hội năm 2010 và những giải pháp chủ yếu cần tập trung chỉ đạo, điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội năm 2011.

I. Tình hình thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội năm 2010

1. Những kết quả chủ yếu đã đạt được:

Mục tiêu tổng quát phát triển kinh tế – xã hội đặt ra cho năm 2010 theo Nghị quyết của Quốc hội là: nỗ lực phấn đấu phục hồi tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt mức cao hơn năm 2009, tăng tính ổn định kinh tế vĩ mô; nâng cao chất lượng tăng trưởng; ngăn chặn lạm phát cao trở lại; tăng khả năng bảo đảm an sinh xã hội; chủ động hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác kinh tế quốc tế; giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội; bảo đảm yêu cầu quốc phòng, an ninh; phấn đấu đạt mức cao nhất các chỉ tiêu của Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2006 – 2010.

Tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XII, căn cứ vào kết quả 9 tháng đầu năm, Chính phủ đã báo cáo ước tình hình thực hiện kinh tế – xã hội năm 2010. Ðến nay, tổng hợp kết quả thực hiện cả năm 2010 cho thấy các mục tiêu đề ra cho năm 2010 về cơ bản đã đạt được, có 16 trong tổng số 21 chỉ tiêu đạt và vượt kế hoạch; trong đó một số chỉ tiêu đạt kết quả cao hơn so với số đã báo cáo Quốc hội, như: tốc độ tăng trưởng kinh tế, tốc độ tăng tổng kim ngạch xuất khẩu, vốn đầu tư phát triển toàn xã hội, tạo việc làm… Trong bối cảnh năm 2010 còn nhiều khó khăn, thách thức, kinh tế thế giới phục hồi chậm và còn tiềm ẩn nhiều rủi ro, khủng hoảng nợ tại châu Âu lan rộng, thiên tai, bão lũ trong nước ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời sống, kết quả này thể hiện nỗ lực, cố gắng rất lớn của các ngành, các cấp, cộng đồng doanh nghiệp, nhân dân và cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Ðảng và có ý nghĩa quan trọng đối với phát triển kinh tế và bảo đảm an sinh xã hội.

Tôi xin nhấn mạnh một số kết quả nổi bật trong năm 2010 như sau:

Kinh tế nước ta tiếp tục đà phục hồi và tăng trưởng khá. Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) năm 2010 đạt 6,78%, cao hơn chỉ tiêu Quốc hội thông qua (6,5%)(1). Các ngành, lĩnh vực kinh tế chủ yếu đều tăng cao hơn năm 2009. Trong nông nghiệp mặc dù gặp nhiều khó khăn do thiên tai, lũ lụt, dịch bệnh nhưng với sự tập trung chỉ đạo của các ngành, các cấp từ Trung ương đến địa phương, sự nỗ lực cố gắng của bà con nông dân nên kinh tế nông nghiệp, nông thôn tiếp tục phát triển, an ninh lương thực được bảo đảm, xuất khẩu gạo đạt mức cao nhất từ trước đến nay (6,8 triệu tấn), cung cấp ngày càng nhiều nguyên liệu phục vụ công nghiệp chế biến, xuất khẩu. Kết quả này cho chúng ta thấy rõ hơn lợi thế của lĩnh vực nông nghiệp trong phát triển kinh tế cũng như trong giải quyết khủng hoảng; đồng thời cũng đặt ra cho chúng ta tiếp tục nhiệm vụ phải tập trung nhiều hơn nguồn lực cho phát triển nông nghiệp, nông thôn, tạo nền tảng ổn định cho tăng trưởng kinh tế và bảo đảm an sinh xã hội.

Các cân đối lớn của nền kinh tế về cơ bản được bảo đảm. Kim ngạch xuất khẩu năm 2010 đạt 72,2 tỷ USD, tăng hơn 4 lần so với chỉ tiêu Quốc hội thông qua (trên 6%); trong đó đáng chú ý là kim ngạch xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp vẫn giữ xu hướng tăng dần, đạt 20 tỷ USD. Nhập siêu cả năm 2010 là 12,6 tỷ USD, bằng 17,5% tổng kim ngạch xuất khẩu (thấp hơn số báo cáo Quốc hội là 19,8%). Kết quả này cho thấy nếu có biện pháp cụ thể, tổ chức quyết liệt để thúc đẩy phát triển công nghiệp chế biến nông sản, công nghiệp hàng tiêu dùng, công nghiệp hỗ trợ, kiểm soát chặt chẽ nhập khẩu hàng hóa chưa thật sự cần thiết (hàng tiêu dùng xa xỉ, hàng trong nước đã sản xuất được và bảo đảm chất lượng, hàng không bảo đảm tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm,…) thì mục tiêu kiểm soát nhập siêu năm 2011 và những năm tiếp theo có thể thực hiện được.

Tổng vốn đầu tư toàn xã hội năm 2010 đạt trên 830 nghìn tỷ đồng, bằng 41,9% GDP (chỉ tiêu Quốc hội thông qua là 39,5% GDP). Trong đó, vốn đầu tư của khu vực ngoài nhà nước (không bao gồm khu vực đầu tư nước ngoài) chiếm 36,1%, tăng 24,7% so với năm 2009 (cao hơn mức tăng bình quân chung của tổng vốn đầu tư toàn xã hội là 17,1%). Ðầu tư tăng, nhất là đầu tư khu vực ngoài nhà nước đã góp phần quan trọng trong việc tạo việc làm và thu nhập cho người lao động. Tổng giá trị giải ngân ODA đạt 3,5 tỷ USD, tăng 44,2% so với kế hoạch; tổng giá trị vốn ODA được ký kết ước đạt 3,2 tỷ USD, thể hiện sự ủng hộ và tin tưởng của các nhà tài trợ đối với Việt Nam (2). Nhờ làm tốt công tác cải cách thủ tục hành chính, năm 2010 môi trường kinh doanh ở Việt Nam được tăng trên 10 bậc, tạo điều kiện cho sản xuất kinh doanh phát triển thuận lợi hơn, số doanh nghiệp đăng ký hoạt động nhiều hơn.

Thu ngân sách nhà nước năm 2010 vượt 21,2% so với dự toán được Quốc hội thông qua; một mặt thể hiện những cố gắng trong công tác quản lý thu ngân sách nhà nước, mặt khác cũng chỉ ra chất lượng của công tác dự báo, dự toán. Nhưng nhờ có tăng thu đã có thêm nguồn để chi bảo đảm các khoản chi an sinh xã hội cấp bách, khắc phục hậu quả thiên tai, bão lũ, đồng thời dành nguồn để giảm bội chi ngân sách còn 5,6% GDP, giảm 0,6% GDP so với dự toán đã được Quốc hội thông qua. Dư nợ Chính phủ đến ngày 31 tháng 12 năm 2010 bằng 44,1% GDP, dư nợ quốc gia bằng 42,2% GDP, được kiểm soát trong giới hạn.

An sinh xã hội được bảo đảm, đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện. Trong bối cảnh kinh tế – xã hội còn nhiều khó khăn, chúng ta vẫn dành nguồn lực bố trí tăng thêm cả ở cấp Trung ương và địa phương để thực hiện các chính sách an sinh xã hội, ổn định đời sống nhân dân. Ðã tổ chức tốt việc phòng, chống, khắc phục kịp thời, hiệu quả hậu quả thiên tai, dịch bệnh, nhất là triển khai nhiều biện pháp cứu hộ, cứu nạn, khắc phục hậu quả lũ, lụt ở miền Trung; xuất cấp gạo dự trữ không thu tiền cho nhân dân vùng bị thiên tai; hỗ trợ khôi phục cơ sở hạ tầng bị hư hại, đồng thời chỉ đạo nghiên cứu tìm giải pháp lâu dài, cơ bản giúp nhân dân vùng bị thiên tai ổn định đời sống, khôi phục và phát triển sản xuất(3). Trong điều kiện thời tiết biến động, thiên tai xuất hiện ngày càng nhiều với quy mô, tần suất, địa điểm và thời điểm khó lường trước, cần tiếp tục phát huy công tác dự báo, chỉ đạo, điều hành và huy động các nguồn lực trong xã hội thì có thể phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai kịp thời, hiệu quả.

Kết quả giải quyết việc làm năm 2010 và một số năm gần đây đều đạt và vượt chỉ tiêu Quốc hội thông qua, thể hiện nỗ lực, cố gắng lớn của các ngành, các cấp. Các chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo, hỗ trợ nhà ở sinh viên, người thu nhập thấp, xây dựng nông thôn mới; cho vay ưu đãi đối với hộ nghèo, các đối tượng chính sách, học sinh, sinh viên, chính sách tiền lương, trợ cấp ưu đãi người có công, trợ cấp cho đối tượng hưởng chính sách bảo trợ xã hội… đều được xem xét điều chỉnh theo mức phù hợp. Ðã triển khai đồng bộ các biện pháp phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn theo các Nghị quyết của Ðảng, Quốc hội. Nhờ sự nỗ lực của các ngành, các cấp, doanh nghiệp và nhân dân trong việc thực hiện đồng bộ và hiệu quả các giải pháp tạo việc làm, giảm nghèo và bảo đảm an sinh xã hội, tỷ lệ hộ nghèo năm 2010 giảm còn 9,45% (giảm 1,85% so với năm 2009).

Quốc phòng, an ninh chính trị được giữ vững; trật tự an toàn xã hội được bảo đảm. Trong năm qua, tình hình kinh tế, chính trị, xã hội thế giới và khu vực có nhiều biến động, nhưng với sự cố gắng lớn của các lực lượng: quốc phòng, công an, bảo vệ pháp luật, ngoại giao, chúng ta tiếp tục giữ vững và phát triển một bước hệ thống quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân, giữ vững hòa bình, bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia, nhất là trên các vùng biển, đảo, thềm lục địa, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo đảm sự ổn định cho phát triển kinh tế – xã hội và niềm tin của nhân dân vào tương lai phát triển của đất nước dưới sự lãnh đạo của Ðảng.

Công tác đối ngoại tiếp tục được đẩy mạnh, kết hợp và phát huy tốt đối ngoại Nhà nước và đối ngoại nhân dân, huy động được sự tham gia của cả hệ thống chính trị, các ngành, các cấp, cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân, đạt được những thành tựu quan trọng trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, ngoại giao, quốc phòng, an ninh, chính trị, xã hội, nhất là thực hiện thành công vai trò Chủ tịch ASEAN năm 2010; kết quả của hoạt động đối ngoại đã tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy phát triển kinh tế, bảo đảm quốc phòng, an ninh, củng cố và nâng cao vị thế, uy tín của nước ta trên trường quốc tế.

2. Một số hạn chế, yếu kém lớn còn tồn tại:

Bên cạnh những kết quả quan trọng đã đạt được, nền kinh tế nước ta năm qua còn một số hạn chế, yếu kém lớn còn tồn tại:

Môi trường kinh tế vĩ mô vẫn còn tiềm ẩn nhiều rủi ro: lạm phát tăng cao, chỉ số giá tiêu dùng năm 2010 tăng 11,75% so với tháng 12 năm 2009, cao hơn chỉ tiêu Quốc hội thông qua (7%); nhập siêu còn lớn; bội chi ngân sách cao, nợ công có xu hướng tăng; mặt bằng lãi suất cao, tỷ giá chưa ổn định đã ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh.

Cơ cấu kinh tế chuyển dịch còn chậm, chất lượng tăng trưởng còn thấp: quá trình chuyển dịch cơ cấu giữa các ngành kinh tế và trong nội bộ từng ngành còn chậm, nhất là về chuyển dịch cơ cấu lao động; chất lượng giáo dục, đào tạo, trình độ nhân lực hạn chế, thiếu lực lượng lao động có trình độ tay nghề giỏi; năng suất lao động chưa cao, trình độ khoa học, công nghệ ở nhiều ngành còn lạc hậu, tỷ trọng giá trị gia tăng thấp, sản phẩm có uy tín, có thương hiệu và có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế còn ít; sản phẩm sản xuất trong nước ở một số lĩnh vực chưa đáp ứng được yêu cầu hoặc chưa đáp ứng được thị trường tiêu dùng trong nước; cơ sở hạ tầng thiếu đồng bộ, chưa bảo đảm chất lượng, tình trạng thiếu điện còn trầm trọng đã trở thành những điểm nghẽn của tăng trưởng và phát triển cả trước mắt và lâu dài.

Ô nhiễm môi trường đang trầm trọng, nhất là tại các khu đô thị, công nghiệp, khu chế xuất, các làng nghề. Chế tài xử lý ô nhiễm môi trường còn chưa đủ mạnh và thực thi pháp luật về xử lý các hành vi gây ô nhiễm, nhất là ở một số khu vực, địa phương còn chưa nghiêm. Chương trình ứng phó với biến đổi khí hậu còn chưa được triển khai có hệ thống, đồng bộ và đang còn là thách thức lớn trong trung hạn và dài hạn ở nước ta.

Thưa Quốc hội, nhìn chung tình hình kinh tế – xã hội năm 2010 phát triển theo chiều hướng tích cực: tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt khá trên tất cả các lĩnh vực quan trọng; kinh tế vĩ mô và các cân đối lớn của nền kinh tế về cơ bản ổn định; an sinh xã hội được bảo đảm; đời sống người dân tiếp tục được cải thiện; chính trị, xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội được giữ vững; công tác đối ngoại được đẩy mạnh, góp phần củng cố và nâng cao vị thế nước ta trên trường quốc tế.

Tuy nhiên, trong bối cảnh kinh tế thế giới còn nhiều khó khăn, thách thức, nguy cơ lạm phát, bất ổn vĩ mô toàn cầu đã và đang tác động, ảnh hưởng lớn đến nước ta trong điều kiện cơ cấu kinh tế trong nước chuyển đổi chậm, chất lượng tăng trưởng và sức cạnh tranh của nền kinh tế còn hạn chế, tỷ giá chưa ổn định, lạm phát tăng cao, nhất là những tháng cuối năm 2010. Ðây là những vấn đề cần đánh giá, dự báo cụ thể tác động, ảnh hưởng để có biện pháp tập trung giải quyết trong năm 2011 và những năm tới.

Tại Kỳ họp Quốc hội lần này, cùng với việc báo cáo bổ sung tình hình kinh tế – xã hội năm 2010, thay mặt Thủ tướng Chính phủ, tôi xin được báo cáo bổ sung trước Quốc hội về tái cơ cấu Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam và việc tổ chức kiểm điểm trách nhiệm tập thể và cá nhân liên quan đến sai phạm tại Tập đoàn.

– Thực hiện Kết luận của Bộ Chính trị về tái cơ cấu Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Phương án tái cơ cấu Tập đoàn, tập trung vào 3 lĩnh vực chính là công nghiệp đóng và sửa chữa tàu biển, công nghiệp phụ trợ cho việc đóng và sửa chữa tàu biển, nghiên cứu thiết kế, đào tạo nâng cao tay nghề cho đội ngũ cán bộ công nhân công nghiệp tàu biển với mục tiêu sớm ổn định tổ chức sản xuất kinh doanh, từng bước củng cố uy tín, thương hiệu của Tập đoàn, giảm lỗ, có lãi, trả được nợ, tích luỹ và phát triển. Phương án này đang được tích cực triển khai. Theo đó, cơ cấu của Tập đoàn sẽ còn lại Công ty mẹ và 42 công ty thành viên, các đơn vị khác thực hiện rút vốn, chuyển nhượng, cổ phần hóa, giải thể, phá sản để tập trung nguồn lực cho ngành nghề sản xuất kinh doanh chính. Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Ðiều lệ và bổ nhiệm lãnh đạo mới của Tập đoàn, chỉ đạo sắp xếp lại sản xuất kinh doanh, đổi mới công tác quản trị doanh nghiệp, tái cơ cấu tài chính, khoanh nợ, giãn nợ, cho vay mới… để duy trì và ổn định sản xuất kinh doanh. Ðến nay tình hình đã có những kết quả bước đầu. Nhờ đó, sản xuất kinh doanh đã từng bước ổn định và phục hồi, bàn giao thêm được nhiều tàu cho khách hàng, các tàu vận tải biển đã hoạt động trở lại, việc làm và thu nhập của người lao động được bảo đảm.

Khó khăn thách thức còn nhiều nhưng những kết quả bước đầu cho thấy việc tái cơ cấu theo Kết luận của Bộ Chính trị là đúng hướng. Với tình hình kinh tế thế giới, thị trường vận tải biển, công nghiệp tàu biển hồi phục và sự quyết tâm của Ðảng và Chính phủ, nỗ lực của cán bộ công nhân, Tập đoàn sẽ vượt qua được khó khăn, tiếp tục tái cơ cấu, trả nợ và phát triển.

– Thực hiện Kết luận số 81/KL-TW ngày 06 tháng 8 năm 2010 và Kết luận số 88/KL-TW ngày 08 tháng 11 năm 2010 của Bộ Chính trị về kiểm điểm trách nhiệm của một số tập thể, cá nhân liên quan đến sai phạm tại Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam, Ủy ban Kiểm tra Trung ương Ðảng được giao nhiệm vụ chủ trì, Thủ tướng Chính phủ, Phó Thủ tướng và một số thành viên Chính phủ đã kiểm điểm nghiêm túc trách nhiệm trong công tác quản lý nhà nước và thực hiện quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của chủ sở hữu đối với Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam. Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã kết luận và kiến nghị với Bộ Chính trị: các đồng chí nêu trên có thiếu sót, khuyết điểm nhưng đã nghiêm túc kiểm điểm, rút kinh nghiệm và xét thấy chưa đến mức phải thi hành kỷ luật. Bộ Chính trị đã nghe Ủy ban Kiểm tra Trung ương báo cáo kết quả xem xét về trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị và cá nhân diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý; thảo luận thống nhất và đã báo cáo Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương Ðảng khoá X: Trong công tác quản lý nhà nước và thực hiện quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của chủ sở hữu đối với các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, Chính phủ, Thủ tướng và các thành viên Chính phủ đã có nhiều cố gắng trong xây dựng và phát triển khu vực kinh tế này, góp phần đưa đất nước vượt qua giai đoạn suy giảm, sớm hồi phục và phát triển. Tuy nhiên, với chức năng là chủ sở hữu và chức năng quản lý nhà nước đối với Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, một số thành viên Chính phủ đã có những thiếu sót khuyết điểm. Bộ Chính trị đã thảo luận, cân nhắc kỹ trên nhiều mặt và bỏ phiếu việc thi hành kỷ luật đối với tập thể và cá nhân các đồng chí có liên quan. Căn cứ kết quả kiểm phiếu và theo quy định của Ðiều lệ Ðảng, Bộ Chính trị đã quyết định không xử lý kỷ luật đối với các tập thể và cá nhân. Ðồng thời yêu cầu các tập thể và cá nhân liên quan phải nghiêm túc tự phê bình, rút kinh nghiệm, tiếp tục chỉ đạo tái cơ cấu Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam theo đúng chỉ đạo của Bộ Chính trị và không để các tập đoàn, tổng công ty nhà nước khác xảy ra sai phạm tương tự. Hội nghị Trung ương 14 nhất trí với Báo cáo của Bộ Chính trị.

– Ngoài ra, xin được báo cáo Quốc hội: Thủ tướng Chính phủ đã giao Thanh tra Chính phủ thực hiện thanh tra toàn diện, làm rõ tình hình và sai phạm ở Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam. Ðến nay, Thanh tra Chính phủ đã hoàn thành công tác thanh tra, đang tổng hợp tình hình, số liệu, hoàn thiện kết quả thanh tra để báo cáo Thủ tướng Chính phủ. Ðối với cá nhân nguyên là lãnh đạo và cán bộ liên quan ở Tập đoàn, Bộ Công an cùng các cơ quan chức năng thi hành pháp luật đã tiến hành điều tra, khởi tố, bắt tạm giam một số cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật, cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế. Ðến nay công tác điều tra đang được tiếp tục củng cố chứng cứ để xử lý nghiêm minh, kịp thời, khách quan theo đúng quy định của pháp luật.

II. Những giải pháp chủ yếu tập trung chỉ đạo, điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội năm 2011

Bước vào năm 2011, bên cạnh những thuận lợi, đất nước ta phải đối mặt với những khó khăn, thách thức mới, lớn hơn so với dự báo cuối năm 2010.

Thuận lợi:

Tiếp theo đà phục hồi tăng trưởng năm 2010, nước ta có những thuận lợi cơ bản. Tăng trưởng GDP quý I năm 2011 ước đạt khoảng 5,5%, tiếp tục duy trì đà tăng trưởng mặc dù tốc độ giảm nhẹ so với cùng kỳ năm 2010 (4). Trong đó, nông nghiệp vẫn giữ xu hướng tăng ổn định; công nghiệp và dịch vụ tiếp tục tăng trưởng; thu, chi ngân sách nhà nước và vốn đầu tư phát triển tăng khá so với cùng kỳ năm 2010 (5). Xuất khẩu tăng mạnh với tổng kim ngạch ước đạt 18,8 tỷ USD (tăng 29,7% so với cùng kỳ), trong đó xuất khẩu nông sản tiếp tục đà tăng cao cả về sản lượng và giá, nhất là gạo, cà phê, cao su, hạt điều,…

Tình hình chính trị – xã hội ổn định, an sinh xã hội được bảo đảm, an ninh quốc phòng được giữ vững, quan hệ đối ngoại được mở rộng, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao. Ðại hội Ðảng XI đã thành công tốt đẹp, tạo sức mạnh, niềm tin và sự đồng thuận cao trong toàn Ðảng, toàn dân, phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Khó khăn, thách thức:

Tình hình trong nước và quốc tế đã xuất hiện những khó khăn, thách thức mới, tiềm ẩn nguy cơ bất ổn kinh tế vĩ mô. Kinh tế thế giới tiếp tục xu hướng phục hồi nhưng chậm lại và chưa ổn định; lạm phát tăng cao, giá lương thực, thực phẩm, dầu thô và nguyên vật liệu cơ bản tiếp tục tăng(6). Khủng hoảng chính trị ở Bắc Phi và Trung Ðông; thiệt hại nặng nề do động đất và sóng thần ở Nhật Bản ảnh hưởng đến sự ổn định và phát triển kinh tế, chính trị, xã hội khu vực và toàn cầu.

Trong nước, chúng ta tiếp tục gặp phải những khó khăn, thách thức lớn hơn so với năm trước, nhất là lạm phát tăng cao do cộng hưởng của các yếu tố: lạm phát toàn cầu tăng, nhất là giá lương thực, giá vàng, giá dầu thô; hệ quả của các giải pháp ngăn chặn đà suy giảm kinh tế trong thời gian qua; ảnh hưởng của thiên tai, lũ lụt lớn ở các tỉnh miền Trung. Chỉ số giá tiêu dùng tăng cao(7)trong điều kiện phải thực hiện chủ trương điều chỉnh giá xăng dầu, giá điện làm cho tình hình càng trở nên khó khăn hơn. Cùng với lạm phát, mặt bằng lãi suất cao, tỷ giá chưa ổn định, giá vàng tiếp tục biến động mạnh, ảnh hưởng lớn đến tăng trưởng, hoạt động sản xuất kinh doanh, gây bất ổn kinh tế vĩ mô và đời sống nhân dân.

Tình hình trên đặt ra thách thức lớn đối với việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội năm 2011 và những năm tiếp theo. Trước tình hình đó, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24 tháng 02 năm 2011 nhằm tập trung chỉ đạo điều hành kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và hướng đến thực hiện mục tiêu tăng trưởng bền vững; đồng thời xác định rõ đây là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu trong chỉ đạo, điều hành.

Một là, thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng

Ðiều hành chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng, bảo đảm phối hợp hài hòa giữa chính sách tiền tệ với chính sách tài khóa để giảm tốc độ tăng tổng cầu bằng cách giảm tốc độ tăng trưởng tín dụng, tổng phương tiện thanh toán, thắt chặt chi tiêu công để từng bước giảm sức ép lạm phát, duy trì ổn định tỷ giá, kiểm soát được thị trường ngoại tệ và thị trường vàng, cụ thể như sau:

Hạn chế tăng cung tiền, kiểm soát tốc độ tăng trưởng tín dụng theo mục tiêu tốc độ tăng tín dụng năm 2011 dưới 20%, tổng phương tiện thanh toán khoảng 15 – 16% nhưng vẫn bảo đảm bố trí vốn tín dụng phục vụ yêu cầu phát triển nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp nhỏ và vừa; đồng thời giảm tốc độ và tỷ trọng vay vốn tín dụng của khu vực phi sản xuất, nhất là lĩnh vực bất động sản, chứng khoán. Triển khai thực hiện có kết quả các giải pháp này thì sức ép lạm phát sẽ giảm, chất lượng tín dụng được nâng cao, đồng thời định hướng được nguồn vốn cho vay các lĩnh vực cần tập trung phát triển để góp phần vừa giải quyết việc làm, thu nhập cho người lao động, vừa đẩy mạnh xuất khẩu, kiểm soát nhập siêu và từng bước chuyển đổi cơ cấu kinh tế.

Ðiều hành chủ động, linh hoạt, hiệu quả các công cụ chính sách tiền tệ, nhất là lượng tiền cung ứng, các loại lãi suất, tỷ giá, bảo đảm phù hợp với diễn biến của thị trường. Tăng cường quản lý ngoại hối để bình ổn thị trường, tỷ giá, đáp ứng yêu cầu phát triển sản xuất kinh doanh và tăng dự trữ ngoại hối; thực hiện các biện pháp phù hợp để các tổ chức, cá nhân, trước hết là đối với các tập đoàn, tổng công ty nhà nước bán ngoại tệ cho ngân hàng khi có nguồn thu và được mua khi có nhu cầu hợp lý. Kiểm soát chặt chẽ hoạt động kinh doanh vàng; ngăn chặn hiệu quả các hoạt động buôn lậu qua biên giới. Tăng cường kiểm tra, giám sát việc tuân thủ quy định về thu đổi ngoại tệ, kinh doanh vàng.

Nâng cao chất lượng tín dụng, bảo đảm an toàn hệ thống tiền tệ, tín dụng, ngân hàng để bảo đảm các nguồn lực tài chính trong nền kinh tế lưu thông thông suốt, giảm thiểu rủi ro, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và tạo điều kiện cho duy trì ổn định, thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh. Thực hiện các biện pháp tiếp tục rà soát, sửa đổi các quy định an toàn về tín dụng, ngân hàng theo lộ trình phù hợp với thông lệ quốc tế và điều kiện kinh tế – xã hội nước ta; rà soát, sửa đổi, bổ sung các cơ chế, chính sách nhằm nâng cao chất lượng tín dụng, các tổ chức tín dụng cơ cấu lại tài sản và nguồn vốn theo hướng an toàn, bền vững; tăng cường kiểm tra, giám sát, cảnh báo sớm rủi ro hệ thống; hỗ trợ các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng trong phòng chống rủi ro, bảo đảm an toàn hệ thống.

Hai là, thực hiện chính sách tài khóa thắt chặt, cắt giảm đầu tư công, giảm bội chi ngân sách nhà nước

Cùng với thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng, thực hiện chính sách tài khóa thắt chặt sẽ giảm tốc độ tăng tổng cầu để thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, cụ thể như sau:

Phấn đấu tăng thu ngân sách nhà nước 7 – 8% so với dự toán năm 2011 đã được Quốc hội thông qua. Tập trung rà soát các nguồn thu, tăng cường kiểm tra, giám sát quản lý thu thuế, chống thất thu thuế; tập trung xử lý các khoản nợ đọng thuế; triển khai các biện pháp cưỡng chế nợ thuế để thu hồi nợ đọng và hạn chế phát sinh số nợ thuế mới.

Rà soát, sắp xếp lại chi thường xuyên để tiết kiệm thêm 10% chi thường xuyên của 9 tháng còn lại trong dự toán năm 2011. Các ngành, các cấp thực hiện các biện pháp tạm dừng không trang bị mới xe ô-tô, điều hòa nhiệt độ, thiết bị văn phòng; giảm tối đa chi phí điện, nước, điện thoại, văn phòng phẩm, xăng dầu,…; người đứng đầu các cơ quan, đơn vị, địa phương, tổ chức sử dụng ngân sách nhà nước chịu trách nhiệm, có kế hoạch giảm tối đa chi phí hội nghị, hội thảo, tổng kết, sơ kết, đi công tác trong và ngoài nước,…; không bổ sung ngân sách ngoài dự toán, trừ các trường hợp thực hiện theo chính sách, chế độ, phòng chống, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh cấp bách.

Rà soát, sắp xếp, cắt giảm đầu tư công, tập trung vốn cho các công trình quan trọng, cấp bách, hiệu quả. Trong đó các Bộ, ngành và địa phương tập trung thực hiện các giải pháp: không ứng trước, không kéo dài thời gian sử dụng vốn, chưa khởi công các công trình, dự án mới sử dụng vốn ngân sách nhà nước, trái phiếu Chính phủ, trừ các dự án phòng chống, khắc phục hậu quả thiên tai, các dự án trọng điểm quốc gia và các dự án được đầu tư từ nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA); kiểm tra, rà soát toàn bộ các công trình, dự án để tập trung vốn đẩy nhanh tiến độ các công trình, dự án quan trọng, cấp bách, hoàn thành trong năm 2011; kiểm tra, rà soát lại đầu tư của các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, doanh nghiệp nhà nước, bảo đảm tập trung vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh chính, loại bỏ các dự án đầu tư kém hiệu quả, đầu tư dàn trải, kể cả các dự án đầu tư ra nước ngoài. Ðồng thời, thực hiện giảm tối thiểu 10% kế hoạch tín dụng đầu tư từ nguồn vốn tín dụng nhà nước của Ngân hàng Phát triển Việt Nam.

Giảm bội chi ngân sách nhà nước năm 2011 xuống dưới 5% GDP, tăng cường quản lý nợ Chính phủ, nợ quốc gia. Tập trung giám sát chặt chẽ việc vay, trả nợ nước ngoài của các doanh nghiệp, nhất là vay ngắn hạn; rà soát nợ Chính phủ, nợ quốc gia, hạn chế nợ dự phòng, không mở rộng đối tượng phạm vi bảo lãnh của Chính phủ; bảo đảm dư nợ Chính phủ, dư nợ công, dư nợ nước ngoài trong giới hạn an toàn tài chính quốc gia.

Ba là, thúc đẩy sản xuất kinh doanh, khuyến khích xuất khẩu, kiềm chế nhập siêu, sử dụng tiết kiệm năng lượng

Cùng với việc thực hiện các giải pháp tiền tệ, tài khóa để thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, cần khuyến khích và tạo mọi điều kiện cần thiết thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh, đẩy mạnh xuất khẩu, kiềm chế nhập siêu, sử dụng tiết kiệm các nguồn lực, năng lượng duy trì tăng trưởng ở mức hợp lý, từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế và bảo đảm việc làm, thu nhập cho người lao động, tạo điều kiện để kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô cả trước mắt và lâu dài, cụ thể như sau:

Thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh: tập trung thực hiện các biện pháp kịp thời tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc cho sản xuất kinh doanh và tiếp cận vốn đối với dự án hiệu quả, có đầu ra của sản phẩm, cải cách, giảm thủ tục để tiết giảm chi phí, đẩy mạnh sản xuất hàng hóa, cung ứng dịch vụ phục vụ sản xuất và tiêu dùng; trong đó tập trung nguồn lực đẩy mạnh phát triển sản xuất nông nghiệp, nông thôn, bảo đảm an ninh lương thực và tăng xuất khẩu nông sản, bảo đảm đời sống nông dân.

Ðẩy mạnh xuất khẩu, kiểm soát nhập siêu: phấn đấu năm 2011 nhập siêu không quá 16% tổng kim ngạch xuất khẩu (chỉ tiêu Quốc hội thông qua là 18%). Tất cả các cơ quan, đơn vị có dự án sử dụng vốn ngân sách nhà nước phải thực hiện nghiêm chủ trương sử dụng hàng hóa, vật tư, thiết bị sản xuất trong nước; xây dựng quy trình, nguyên tắc kiểm soát nhập khẩu hàng hóa, vật tư, thiết bị của các dự án đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước, vốn trái phiếu Chính phủ, vốn do Chính phủ bảo lãnh, vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước. Kiểm soát chặt chẽ nhập khẩu hàng tiêu dùng, đặc biệt là hàng ảnh hưởng đến sức khỏe, môi trường, hàng xa xỉ, không thiết yếu, hàng không khuyến khích nhập khẩu, hạn chế xuất khẩu tài nguyên, nguyên liệu thô.

Tăng cường kiểm soát giá cả, thị trường: các Bộ, địa phương, cơ quan chức năng thường xuyên theo dõi diễn biến thị trường trong nước và quốc tế để kịp thời có biện pháp điều tiết, bình ổn thị trường, nhất là các mặt hàng thiết yếu tại các thành phố lớn; kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc thực hiện các quy định pháp luật về giá để bảo đảm việc tăng giá bán hàng phải được giám sát và phải hợp lý, đúng quy định; tăng cường chống đầu cơ, nâng giá và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm.

Sử dụng tiết kiệm năng lượng: huy động tối đa công suất các nhà máy điện để đáp ứng nhu cầu phụ tải điện trong mùa khô, ưu tiên bảo đảm điện cho sản xuất; phối hợp với các địa phương chỉ đạo việc sử dụng điện tiết kiệm; đồng thời cung cấp điện đáp ứng cho các nhu cầu thiết yếu của sản xuất và đời sống. Các ngành, các cấp tổ chức, hướng dẫn, chỉ đạo triển khai quyết liệt thực hiện các quy định về tiết kiệm, chống lãng phí điện; xây dựng và thực hiện chương trình tiết kiệm điện, phấn đấu tiết kiệm sử dụng điện 10% trong sản xuất và tiêu dùng. Ðồng thời, có biện pháp cần thiết và phù hợp để khuyến khích, khuyến cáo các doanh nghiệp, nhân dân sử dụng tiết kiệm năng lượng (điện, xăng dầu), sử dụng các công nghệ cao, công nghệ xanh, sạch, công nghệ tiết kiệm điện.

Ðẩy mạnh cải cách doanh nghiệp nhà nước: các tập đoàn kinh tế, tổng công ty, doanh nghiệp nhà nước, cần tiếp tục đẩy mạnh cổ phần hóa, tái cơ cấu, kiểm soát chặt chẽ chi phí sản xuất và các dự án đầu tư, đổi mới quản trị doanh nghiệp để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, bảo đảm giá sản phẩm hàng hóa, dịch vụ ở mức hợp lý; tập trung vốn cho ngành nghề sản xuất kinh doanh chính.

Bốn là, điều chỉnh giá điện, xăng dầu gắn với hỗ trợ hộ nghèo

Thực hiện điều chỉnh một bước giá điện, giá xăng dầu gắn với việc thực hiện chính sách hỗ trợ của Nhà nước cho các hộ nghèo để doanh nghiệp từng bước hạch toán đủ chi phí năng lượng theo nguyên tắc thị trường, khuyến khích đổi mới công nghệ sử dụng ít năng lượng, nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp; khuyến khích đầu tư phát triển các dự án phát điện, doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực điện, xăng dầu, đồng thời thực hiện chính sách an sinh xã hội để bảo đảm đời sống của người nghèo (8).

Về điều chỉnh giá điện: giá điện thời gian vừa qua bằng khoảng 60 – 70% giá thành. Ðầu tháng 3 năm 2011, Chính phủ đã điều chỉnh một bước giá điện tăng thêm 165 đồng/kWh (tương đương tăng 15,28%). Ðồng thời, thực hiện việc hỗ trợ trực tiếp cho hộ nghèo 30.000 đồng/hộ/tháng. Với mức giá này, doanh nghiệp điện chưa có lãi và các khoản lỗ lũy kế trước đây còn lùi lại chờ xử lý sau.

Về điều chỉnh giá xăng dầu: theo quy định của Chính phủ về kinh doanh xăng dầu thì giá xăng dầu đã có căn cứ để vận hành theo cơ chế thị trường. Tuy nhiên để thực hiện yêu cầu bình ổn giá trước Ðại hội Ðảng XI, Tết Nguyên đán Tân Mão nên giá bán xăng tạm thời chưa điều chỉnh. Ðợt điều chỉnh giá xăng dầu vừa qua (ngày 24 tháng 2 năm 2011) thực hiện theo nguyên tắc Nhà nước tiếp tục không thu thuế nhập khẩu xăng dầu, doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu chưa có lãi nhưng cũng không bị lỗ. Theo đó, giá xăng được điều chỉnh tăng thêm 2.900 đồng/lít và được bán với giá 19.300 đồng/lít (hiện vẫn thấp hơn giá bán của Trung Quốc, Thái-lan, Lào, Cam-pu-chia). Với cách điều hành này, khi giá xăng dầu quốc tế ở mức thuận lợi, Nhà nước sẽ tiếp tục giữ giá, điều chỉnh thuế, doanh nghiệp có lãi hợp lý để duy trì, phát triển sản xuất kinh doanh và tiếp tục thực hiện cơ chế thị trường về kinh doanh xăng dầu, bảo đảm giá xăng dầu trong nước bám sát giá xăng dầu thế giới.

Năm là, tăng cường bảo đảm an sinh xã hội

Thực hiện chủ trương bảo đảm đời sống cho người nghèo và các đối tượng chính sách xã hội của Ðảng và Nhà nước, mặc dù trong điều kiện còn nhiều khó khăn, Chính phủ tiếp tục thực hiện đồng bộ các chính sách an sinh xã hội theo các chương trình, dự án, kế hoạch đã được phê duyệt; tập trung chỉ đạo hỗ trợ giảm nghèo, tạo việc làm tại các địa phương, nhất là tại các huyện nghèo, xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn; hỗ trợ các hộ nghèo, địa phương nghèo xuất khẩu lao động; cho vay học sinh, sinh viên,… Tăng cường chỉ đạo phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, bão lũ. Ðồng thời, ưu tiên bố trí kinh phí để thực hiện các chính sách an sinh xã hội theo chuẩn nghèo mới và hỗ trợ hộ nghèo khi điều chỉnh giá điện. Chính phủ cũng đang chuẩn bị nguồn lực để tiếp tục điều chỉnh tiền lương, bảo hiểm xã hội đối với cán bộ, công chức, lực lượng vũ trang, người về hưu và các đối tượng chính sách theo lộ trình đã định.

Vừa qua, khi xảy ra khủng hoảng chính trị ở Bắc Phi và Trung Ðông, Chính phủ đã chỉ đạo các cơ quan chức năng chủ động phối hợp với phía nước ngoài bảo đảm an toàn và đưa toàn bộ người lao động Việt Nam ở Li-bi về nước; đồng thời có biện pháp để doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân và Nhà nước hỗ trợ người lao động từng bước ổn định đời sống. Chính phủ cũng đã chỉ đạo bám sát tình hình và có các giải pháp cần thiết để hỗ trợ, đảm bảo an toàn cho công dân nước ta khi xảy ra thảm họa động đất, sóng thần tại Nhật Bản.

Sáu là, đẩy mạnh công tác tư tưởng, thông tin, tuyên truyền

Xác định rõ vai trò và tầm quan trọng của công tác tư tưởng, thông tin, tuyên truyền, tạo đồng thuận xã hội trong việc thực hiện và đưa các chủ trương, chính sách của Ðảng và Nhà nước vào thực tiễn, theo chỉ đạo của Bộ Chính trị, Chính phủ đã chỉ đạo các Bộ, cơ quan Trung ương và địa phương phối hợp chặt chẽ với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị, xã hội ở Trung ương và địa phương đẩy mạnh công tác tư tưởng, thông tin, tuyên truyền, tăng cường chỉ đạo để các cơ quan thông tin, truyền thông, báo chí thông tin, tuyên truyền đầy đủ, kịp thời, nhất là các nội dung lĩnh vực tài chính, tiền tệ, giá cả, các chính sách an sinh xã hội, chính sách hỗ trợ các hộ nghèo trực tiếp chịu tác động của việc điều chỉnh giá; đồng thời yêu cầu các Bộ, cơ quan, ban ngành Trung ương và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chủ động cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời, công khai, minh bạch cho báo chí, nhất là những vấn đề mà dư luận quan tâm. Chính phủ cũng yêu cầu xử lý nghiêm, kịp thời theo thẩm quyền các hành vi đưa tin sai sự thật, không đúng định hướng của Ðảng và Nhà nước, tạo đồng thuận xã hội, niềm tin trong nhân dân trong việc thực hiện chủ trương kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội.

Thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội vừa là nhiệm vụ cần thiết, cấp bách trước mắt trong năm 2011, vừa là yếu tố quan trọng để bảo đảm ổn định và phát triển bền vững trong dài hạn.

Trong điều kiện có nhiều khó khăn, thách thức mới, với sự quyết tâm cao, đoàn kết, đồng thuận về tư tưởng, nhận thức và hành động của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân dưới sự lãnh đạo của Ðảng, chúng ta sẽ thực hiện thành công mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội để hướng đến phát triển bền vững.

Chính phủ xin trân trọng đề nghị Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân và đồng chí, đồng bào trong cả nước tăng cường giám sát, phối hợp hành động, nỗ lực phấn đấu tạo sự chuyển biến đồng bộ và mạnh mẽ hơn nữa trên các mặt công tác để phấn đấu thực hiện cao nhất Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội năm 2011, tạo tiền đề thuận lợi để thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2011 – 2015 và Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm 2011 – 2020..

MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI XI ĐẢNG CSVN


2- Từ thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Nghị quyết Đại hội X, có thể rút ra một số kinh nghiệm
:
Một là, trong bất kỳ điều kiện và tình huống nào, phải kiên trì thực hiện đường lối và mục tiêu đổi mới, kiên định và vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đổi mới toàn diện, đồng bộ với những bước đi thích hợp. Tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế phải gắn với chú trọng xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, giữ vững truyền thống và bản sắc văn hóa dân tộc. Mở rộng, phát huy dân chủ phải gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương và ý thức trách nhiệm của mỗi công dân, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp và cả cộng đồng.
Hai là, phải thật sự coi trọng chất lượng, hiệu quả tăng trưởng và phát triển bền vững. Nâng cao chất lượng và hiệu quả của nền kinh tế với tốc độ tăng trưởng hợp lý, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô. Tăng cường huy động các nguồn lực trong và ngoài nước, sử dụng tiết kiệm và hiệu quả các nguồn lực để đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế. Phát triển lực lượng sản xuất phải đồng thời xây dựng, hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp; củng cố và tăng cường các yếu tố bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế.

Ba là, phải coi trọng việc kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; bảo đảm an sinh xã hội, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, nhất là đối với người nghèo, đồng bào ở vùng sâu, vùng xa, đặc biệt là trong tình hình kinh tế khó khăn, suy giảm; gắn phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, củng cố quốc phòng, an ninh, tăng cường quan hệ đối ngoại, thực hiện tốt hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Bốn là, đặc biệt chăm lo củng cố, xây dựng Đảng vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Thật sự phát huy dân chủ đi đôi với kỷ luật, kỷ cương; giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, tăng cường đoàn kết thống nhất, gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng. Xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên vững vàng về chính trị, tư tưởng, trong sáng về đạo đức, lối sống, có sức chiến đấu cao, giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ; phát huy hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, tính tích cực, chủ động, sáng tạo của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.
Năm là, trong công tác lãnh đạo và chỉ đạo phải rất nhạy bén, kiên quyết, sáng tạo, bám sát thực tiễn đất nước; chú trọng công tác dự báo, kịp thời đề ra các giải pháp phù hợp với tình hình mới; tăng cường công tác tuyên truyền, tạo sự đồng thuận cao, phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội.

3- Dự báo tình hình thế giới và trong nước những năm sắp tới
Trên thế giới: Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng sẽ có những diễn biến phức tạp mới, tiềm ẩn nhiều bất trắc khó lường. Những căng thẳng, xung đột tôn giáo, sắc tộc, ly khai, chiến tranh cục bộ, tranh chấp lãnh thổ, bạo loạn chính trị, can thiệp, lật đổ, khủng bố vẫn sẽ diễn ra gay gắt; các yếu tố đe dọa an ninh phi truyền thống, tội phạm công nghệ cao trong các lĩnh vực tài chính – tiền tệ, điện tử – viễn thông, sinh học, môi trường… còn tiếp tục gia tăng.
Cục diện thế giới đa cực ngày càng rõ hơn, xu thế dân chủ hóa trong quan hệ quốc tế tiếp tục phát triển nhưng các nước lớn vẫn sẽ chi phối các quan hệ quốc tế. Toàn cầu hóa và cách mạng khoa học – công nghệ phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy quá trình hình thành xã hội thông tin và kinh tế tri thức. Kinh tế thế giới mặc dù có dấu hiệu phục hồi sau khủng hoảng nhưng vẫn còn nhiều khó khăn, bất ổn; chủ nghĩa bảo hộ phát triển dưới nhiều hình thức; cơ cấu lại thể chế, các ngành, lĩnh vực kinh tế diễn ra mạnh mẽ ở các nước; tương quan sức mạnh kinh tế giữa các nước, nhất là giữa các nước lớn có nhiều thay đổi. Cạnh tranh về kinh tế – thương mại, tranh giành các nguồn tài nguyên, năng lượng, thị trường, công nghệ, nguồn vốn, nguồn nhân lực chất lượng cao… giữa các nước ngày càng gay gắt. Những vấn đề toàn cầu như an ninh tài chính, an ninh năng lượng, an ninh lương thực, biến đổi khí hậu, nước biển dâng cao, thiên tai, dịch bệnh… sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp. Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước trên thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân sinh, dân chủ và tiến bộ xã hội tiếp tục phát triển. Cuộc đấu tranh dân tộc và giai cấp vẫn diễn biến phức tạp.
Khu vực châu Á – Thái Bình Dương, trong đó có khu vực Đông – Nam Á vẫn sẽ là khu vực phát triển năng động nhưng còn tồn tại nhiều nhân tố gây mất ổn định; tranh chấp lãnh thổ, biển đảo ngày càng gay gắt. Xuất hiện các hình thức tập hợp lực lượng và đan xen lợi ích mới. ASEAN tiếp tục đẩy mạnh liên kết khu vực, xây dựng cộng đồng, có vai trò ngày càng quan trọng trong khu vực, song còn nhiều khó khăn, thách thức.

Ở trong nước: Những thành tựu, kinh nghiệm của 25 năm đổi mới (1986 – 2011) đã tạo ra cho đất nước lực và thế, sức mạnh tổng hợp lớn hơn nhiều so với trước. Năm năm tới là giai đoạn kinh tế nước ta tiếp tục phục hồi, lấy lại đà tăng trưởng sau thời kỳ suy giảm; sẽ thực hiện nhiều hơn các hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương; khắc phục những hạn chế, yếu kém trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Tuy nhiên, nước ta đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen nhau, tác động tổng hợp và diễn biến phức tạp, không thể coi thường thách thức nào. Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới vẫn tồn tại. Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên gắn với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn nghiêm trọng, làm giảm sút niềm tin của nhân dân vào Đảng và Nhà nước. Các thế lực thù địch tiếp tục thực hiện âm mưu "diễn biến hòa bình", gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài "dân chủ", "nhân quyền" hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta. Trong nội bộ, những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" có những diễn biến phức tạp.
Nhìn chung, những tình hình và xu hướng nêu trên sẽ tạo ra cả những thời cơ và thách thức đan xen đối với sự phát triển của đất nước trong 5 năm tới. [/ALIGN]
4- Mục tiêu, nhiệm vụ phát triển đất nước 5 năm 2011 – 2015
Mục tiêu tổng quát trong 5 năm tới là: Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới; xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; phát huy dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; phát triển kinh tế nhanh, bền vững; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; giữ vững ổn định chính trị – xã hội; tăng cường hoạt động đối ngoại; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Nhiệm vụ chủ yếu:
– Ổn định kinh tế vĩ mô, đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu, nâng cao chất lượng, hiệu quả của nền kinh tế, bảo đảm phát triển nhanh và bền vững, nâng cao tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế; huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực; từng bước xây dựng kết cấu hạ tầng hiện đại. Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
– Phát triển, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, chất lượng nguồn nhân lực; phát triển khoa học, công nghệ và kinh tế tri thức. Tập trung giải quyết vấn đề việc làm và thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Tạo bước tiến rõ rệt về thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, giảm tỷ lệ hộ nghèo; cải thiện điều kiện chăm sóc sức khỏe cho nhân dân. Tiếp tục xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Bảo vệ môi trường, chủ động phòng tránh thiên tai, ứng phó có hiệu quả với biến đổi khí hậu.
– Tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh; giữ vững ổn định chính trị – xã hội, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, trật tự an toàn xã hội; ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch; triển khai đồng bộ, toàn diện, hiệu quả các hoạt động đối ngoại, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế.
– Tiếp tục phát huy dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; hoàn thiện, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của Quốc hội, Chính phủ, chính quyền địa phương; đẩy mạnh cải cách hành chính và cải cách tư pháp; thực hiện có hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí. Đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.
– Đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức; tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác cán bộ, kiểm tra, giám sát và tư tưởng; thường xuyên học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh, nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên; tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.

Phấn đấu đạt được các chỉ tiêu chủ yếu:
Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm 2011 – 2015: 7,0 – 7,5%/năm. Giá trị gia tăng công nghiệp – xây dựng bình quân 5 năm tăng 7,8 – 8%; giá trị gia tăng nông nghiệp bình quân 5 năm 2,6 – 3%/năm. Cơ cấu GDP: nông nghiệp 17 – 18%, công nghiệp và xây dựng 41 – 42%, dịch vụ 41 – 42%; sản phẩm công nghệ cao và sản phẩm ứng dụng công nghệ cao đạt 35% tổng GDP; tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 55%. Kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân 12%/năm, giảm nhập siêu, phấn đấu đến năm 2020 cân bằng được xuất nhập khẩu. Vốn đầu tư toàn xã hội bình quân 5 năm đạt 40% GDP. Tỷ lệ huy động vào ngân sách nhà nước đạt 23 – 24% GDP; giảm mức bội chi ngân sách xuống 4,5% GDP vào năm 2015. Giải quyết việc làm cho 8 triệu lao động. Tỷ trọng lao động nông – lâm – thủy sản năm 2015 chiếm 40 – 41% lao động xã hội. Thu nhập của người dân nông thôn tăng 1,8 – 2 lần so với năm 2010. Tốc độ tăng dân số đến năm 2015 khoảng 1%. Năm 2015, GDP bình quân đầu người khoảng 2.000 USD. Tuổi thọ trung bình năm 2015 đạt 74 tuổi. Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn mới giảm bình quân 2%/năm. Tỷ lệ che phủ rừng năm 2015 đạt 42 – 43%.
Trong nhiệm kỳ khóa XI, trên cơ sở quán triệt và lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện việc thực hiện các quan điểm, nhiệm vụ trên tất cả các lĩnh vực đã nêu trong Báo cáo chính trị, cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong thực hiện những nhiệm vụ trọng tâm sau:
– Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng;
– Đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là thủ tục hành chính liên quan đến tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp, sinh hoạt của nhân dân;
– Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước;
– Xây dựng đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, nhất là hệ thống giao thông, yếu tố đang gây ách tắc, cản trở sự tăng trưởng kinh tế, gây bức xúc trong nhân dân;

– Đổi mới quan hệ phân phối, chính sách tiền lương, thu nhập của cán bộ, công chức, viên chức, người lao động; khắc phục tình trạng bất hợp lý và tác động tiêu cực của quan hệ phân phối, chính sách tiền lương, thu nhập hiện nay;
– Tập trung giải quyết một số vấn đề xã hội bức xúc (suy thoái đạo đức, lối sống, tệ nạn xã hội, trật tự, kỷ cương xã hội);
– Đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí để thực sự ngăn chặn, đẩy lùi được tệ nạn này.